Bố cục của luận văn gồm có 3 chương: Chương 1 - Chu Lai - cuộc đời, văn nghiệp và quan niệm nghệ thuật; Chương 2 - Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Chu Lai sau 1975 nhìn từ bình diện nội dung; Chương 3 - Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Chu Lai sau 1975 nhìn từ bình diện nghệ thuật. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày chiến tranh Việt Nam chấm dứt. Chính thể Việt Nam Cộng hòa thua trận với hậu quả hai đợt di dân lớn từ Việt Nam đến Hoa Kỳ và các nước Tây phương. Hơn 125.000 người Việt Nam đến Hoa Kỳ vào cuối xuân 1975 vì sợ chính quyền mới trả thù Tôi ngước nhìn lên bầu trời xanh thẳm không một gợn mây chi chít những vì sao. Trăng treo lơ lửng trên đầu ngọn tre in đậm lên nền trời. Anh trăng trùm lấy mái nhà và khu vườn rau xanh tốt của bà. Lúc ấy, tôi bỗng nắm chặt lấy tay bà và thốt lên: "Bà ơi! Trăng ở quê đẹp thật bà ạ!" Sau mùa hè năm ấy, bà nội tôi đã ra đi mãi mãi. truyện ngắn thuộc bộ phận văn học cách mạng giai đoạn 1945 - 1975 bởi chúng cùng nằm trong một trường diễn ngôn (có chung hoàn cảnh lịch sử, xã hội, cùng chịu sự chi phối của một cơ chế quyền lực, có chung môi trường sáng tác, chung đối tượng tiếp nhận, chung điều kiện lưu hành…). Những tác phẩm thuộc bộ phận này có thể Tài liệu Thơ Việt Nam sau năm 1975 có mã là 456930, file định dạng doc, có 12 trang, Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn việt nam hiện đại sau năm 1975. Mã: 453625 Dạng:.doc Page: 10 Size:70 Kb Tải: 07 Xem:178. Xem . Tho Viet Nam 1945 1975. Mã: 452923 Dạng:.doc kết luận 53thoàn cảnh xã hội việt nam những năm sau 1975 có nhiều biến động: cuộc chiến tranh kéo dài ba mươi năm vừa chấm dứt, tiếng súng lại nổ ở biên giới phía bắc, phía tây nam để khắng định chủ quyền, bảo vệ biên giới; nền kinh tế thị trường xâm nhập, phá vỡ những chuẩn mực lề lối làm việc của nền kinh tế bao cấp; sự sụp đổ của một loạt các … Sau 3 năm tại ngũ, đến năm 1975, Đoàn Xuân Hòa ra quân, quay về học Đại học Bách khoa. Những tưởng mọi sự đã Xem Thêm Cách 'biến hình' vào vạn vật của Nhà văn Nhật Chiêu Đây có thể là một trường ca gồm 36 khúc, mà mỗi khúc là một bài thơ riêng lẻ, dù tác giả chẳng tách riêng Xem Thêm Sự độc đáo và đầy thú vị bản Kiều… Tàu Số liệu người tỵ nạn Việt Nam từ sau ngày 30 tháng 4/1975 1. Tháng 6-1975 đến 1979: 311.400. Ðường bộ có 14.600 qua ngả Campuchia, Thái Lan. Tổng cộng 326.000.[cần dẫn nguồn] 2. 1980 đến 1984: 242.000 thuyền nhân và 11.000 tỵ nạn đường bộ. Tổng cộng đợt 2 là 253.100.[cần dẫn nguồn] 3. 1985 đến 1989: 186.500 thuyền nhân và đường bộ 10.500. App Vay Tiền. 1. Đặc trưng thể loại và cảm hứng sáng tác Giá trị của một truyện ngắn chính là sức dung chứa những ý tưởng lớn trong một “kích cỡ nhỏ” của tác phẩm. Một trong những tiền đề quan trọng làm nên thành tựu của văn học Việt Nam đó là hiện thực cách mạng khơi nguồn cho sự sáng tạo và là cảm hứng chủ đạo của nhiều tác phẩm văn chương. Truyện ngắn từ sau năm 1975 đã phản ánh rất rõ sự thay đổi của hiện thực cuộc sống, rõ nét nhất trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng… Nhận thức được điều này, khi tìm hiểu, tiếp cận truyện ngắn Việt Nam từ sau năm 1975, cần chú ý đến cảm hứng sáng tác của từng tác giả nói riêng và cảm hứng của thời đại nói chung. Khơi nguồn cảm hứng từ trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa là hiện thực cuộc sống được phản ánh qua cái nhìn của người nghệ sĩ. Đằng sau cái bức tranh bình minh trên biển đẹp tuyệt đích, hoàn mĩ ấy là sự thật tồi tệ, phũ phàng – cuộc sống của gia đình hàng chài một người đàn bà bị chồng hành hạ vô lí nhưng không bao giờ muốn từ bỏ kẻ độc ác ấy; những chiến sĩ nhiệt thành từng chiến đấu giải phóng miền Nam nhưng lại không thể nào giải thoát cho một người đàn bà bất hạnh. Còn trong truyện ngắn Một người Hà Nội, điều cơ bản mà nhà văn hướng đến là hiện thực cuộc sống thông qua nhân vật cô Hiền. Hình tượng ấy được xây dựng lên như để chứng minh có một tinh thần Hà Nội, một linh hồn Hà Nội thực sự đã và đang tồn tại, để lại dấu ấn đậm nét trong những người con của nó. Do vậy, cảm hứng chính của nhà văn trong tác phẩm này là khám phá bản sắc văn hoá Hà Nội – cái quyết định vận mệnh và vị thế của Hà Nội trong lịch sử, cũng là cái làm nền tảng cho bước phát triển mới của nó trong tương lai, như tác giả đã khẳng định “Một người như cô phải chết đi thật tiếc, một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng”. 2. Về không gian, thời gian nghệ thuật * Không gian nghệ thuật Sau năm 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, văn xuôi thường viết về vấn đề đời tư, thế sự; không gian ở đó là không gian sinh hoạt đời thường. Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 cũng nằm trong dòng chảy chung của văn học nước nhà, thể hiện rõ nét trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải. Họ viết về cuộc sống thành thị, nông thôn, về số phận con người trong thời đại mới. Vì thế ta thường thấy xuất hiện những không gian trong sinh hoạt đời thường. Đó là nơi để nhân vật hoạt động và tự thể hiện mình trong cuộc sống thường ngày. Cái không gian chật chội của một gia đình có năm đứa con trên một con thuyền lênh đênh trên biển những lúc sóng to gió lớn; cũng có lúc khổ đau đến tận cùng vì người chồng vũ phu “cứ ba ngày một trận nặng, năm ngày một trận nhẹ”. Thế nhưng người vợ ấy vẫn không chịu bỏ chồng theo đề nghị của người làm công lí vì nhiều lí do mà bà đưa ra hết sức thuyết phục. Nhưng xét đến cùng, trong không gian ấy con người bộc lộ đến cùng bản chất nhiều mặt tốt – xấu, thiện – ác, cao cả – thấp hèn, cách đối nhân xử thế của mình. Qua đó tác giả thể hiện cái nhìn về những vấn đề có ý nghĩa nhân sinh. * Thời gian nghệ thuật Đọc truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải, chúng ta dễ dàng nhận ra thời gian nghệ thuật ở trong tác phẩm là thời gian của quá khứ, hiện tại và tương lai. Nó đan quyện vào nhau, gắn kết với nhau để con người thể hiện mình, từ đó làm nên giá trị, ý nghĩa của tác phẩm. Điều đó thể hiện rõ nét qua hình ảnh cô Hiền – một người Hà Nội trong truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải luôn lặng lẽ giữ lấy nét hào hoa, thanh lịch của văn hoá Hà Nội lại được đặt giữa bối cảnh đã có sự đối lập giữa lối sống của người Hà Nội xưa với người Hà Nội hôm nay. Có thể nói rằng, các tác giả truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 đã rất thành công trong việc sử dụng thời gian như một phương tiện hữu hiệu để tạo nên hiệu quả nghệ thuật nhất định. Do vậy, tìm hiểu yếu tố thời gian nghệ thuật trong tác phẩm không những là để khám phá tác phẩm mà còn giúp học sinh thấy rõ được tài nghệ của nhà văn; có nhận thức được sự sâu sắc, tinh tế về nội dung của tác phẩm, thì việc tiếp nhận tác phẩm mới trở nên toàn vẹn hơn. 3. Ngôn ngữ, giọng điệu * Ngôn ngữ Ngôn ngữ truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 thể hiện hết sức phong phú, đa dạng vừa gần gũi, bình dị như cuộc sống hàng ngày lại vừa đầy suy tư, sâu lắng. Truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải và Chiếc thuyền ngoài xa của nguyễn Minh Châu là minh chứng hùng hồn cho đặc điểm đó. Sự lí giải của người đàn bà hàng chài trước tòa án huyện “Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con rồi nuôi cho con đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó!… vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. Phải nói rằng, cái ngôn ngữ mà người đàn bà hàng chài đưa ra để giải thích lí do đối với chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng; dù không hoa mĩ, cầu kì, sắc sảo nhưng nó chứa đầy sức thuyết phục. Vì đó là ngôn ngữ của người đàn bà hàng chài, nó bình dị gần với cuộc sống đời thường nhưng mang đậm triết lí sâu sắc. Bởi đó là thực tế cuộc sống mà chỉ có họ mới là người nếm trải, lại thấm thía và thấu hiểu mà không ai có thể làm thay được. * Giọng điệu Sau năm 1975, khi chiến tranh đi qua, nhịp sống đời thường trở lại với tất cả những biểu hiện phong phú của đời sống ích kỉ, vị tha, cao thượng, thấp hèn, phàm tục…Văn xuôi từ chỗ “phản ánh hiện thực” đến chỗ “nghiền ngẫm hiện thực”, đi vào tìm hiểu “toàn bộ chiều sâu của tâm hồn con người”.Vì thế văn chương không thể chỉ có cảm xúc ngợi ca mà còn có đối thoại, đó chính là biểu hiện của mối quan hệ bình đẳng giữa nhà văn và độc giả. Thời kì này, nhà văn nhìn cuộc sống qua lăng kính đời tư, thế sự, quan tâm đến con người ở tư cách cá nhân. Từ giọng điệu trang trọng sử thi, sắc bén họ chuyển dần sang giọng điệu tâm tình, gần gũi, giản dị của đời thường. Con người không chỉ là đối tượng để ngợi ca mà còn là tiêu điểm để nhà văn khai thác bề sâu tâm hồn. Nếu như trước 1975, nhà văn ngợi ca những con người, những sự kiện mang tầm vóc sử thi thì sau 1975, tác phẩm truyện ngắn tập trung ngợi ca những con người bình dị, hồn nhiên thể hiện niềm tin của tác giả vào con người và cuộc đời. Việc ngợi ca đức hi sinh cao cả của người phụ nữ làm nghề chài lưới trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã cho thấy thái độ trân trọng, thấu hiểu và cảm thông của nhà văn đối với nhân vật mình. Hay trong truyện ngắn Một người Hà Nội, Nguyễn Khải đã cho thấy trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử nhân vật cô Hiền vẫn mãi là “hạt bụi vàng” giữa đất kinh kì “chói sáng những ánh vàng”. 4. Cốt truyện, kết cấu của tác phẩm * Cốt truyện Khi tìm hiểu tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, để giúp HS nắm được sự phát triển của cốt truyện, GV có thể yêu cầu HS kể lại tác phẩm sau khi đã đọc. Khi kể, các em có thể trình bày một cách chi tiết hoặc sơ lược, nhưng miễn là giới thiệu được câu chuyện xoay quanh phát hiện của nghệ sĩ Phùng và cuộc sống của gia đình hàng chài. Qua đó, nhà văn gửi gắm quan niệm của mình về con người và cuộc sống. Nắm được cốt truyện tức là giúp HS củng cố được tri thức văn học đồng thời trau dồi năng lực tư duy, ngôn ngữ, phát triển năng khiếu thẩm mĩ cho HS. Điều quan trọng để nắm vững cốt truyện trong tác phẩm là phân tích các chặng đường phát triển chủ yếu của đó sẽ tạo ở các em một ấn tượng hoàn chỉnh về hình tượng tự sự ở trong tác phẩm. Nắm vững cốt truyện là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình hướng dẫn HS tìm hiểu những yếu tố về nghệ thuật của truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 ở trường phổ thông. * Kết cấu Truyện ngắn từ sau năm 1975 đã không chịu đầu hàng trước hiện thực phức tạp, đa chiều của cuộc sống; đã đem lại nhiều kiểu kết cấu hết sức đa dạng, phong phú và linh hoạt. Đó là kiểu kết cấu tâm lí, giúp nhà văn có điều kiện thâm nhập vào thế giới bên trong của tâm hồn con người mà không cần nhiều lời. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh cuộc sống của gia đình người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa và những sinh hoạt quen thuộc dường như đã trở thành “nếp” trong gia đình cô Hiền trong Một người Hà Nội; tưởng chừng như rất đơn giản nhưng trong đó chất chứa bao nỗi niềm trăn trở của nhà văn về con người và cuộc sống. Dường như tác giả muốn trao quyền kết luận cho người đọc qua việc sử dụng lối kết cấu độc đáo này. Hay ở phần kết tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, hình ảnh người đàn bà “bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông”. Hình ảnh ấy gợi cho người đọc cảm nhận được rằng “người đàn bà” hòa lẫn trong đám đông ấy phải chăng còn bao số phận khác như người đàn bà hàng chài này chăng? Cuộc đời họ rồi sẽ đi về đâu… Kết cấu đó cũng gợi mở nhiều vấn đề, tạo ra nhiều khoảng trống để người đọc cảm nhận và giải mã khoảng trống đó. 5. Nhân vật trung tâm Khi tìm hiểu nhân vật trung tâm trong truyện ngắn, cần dựa vào các yếu tố lai lịch, ngoại hình, gốc gác, ngôn ngữ, nội tâm, cách ứng xử, cử chỉ, hành động của nhân vật. Phân tích, tìm hiểu nhân vật cô Hiền trong truyện ngắn Một người Hà Nội đã cho thấy Điều mà tác giả quan tâm và tập trung thể hiện ở nhân vật cô Hiền chính là vẻ đẹp của một lối sống, nhân cách người Hà Nội, “một người Hà Nội của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn”, như chính lời của người kể chuyện nói về nhân vật. Truyện đưa ra nhiều chi tiết sự việc về nhân vật cô Hiền, nhưng chung quy lại vẫn là ở hai mối quan hệ chính gia đình và xã hội, với cách mạng. Với tư cách là người mẹ, người chủ gia đình, hay một công dân, ở nhân vật cô Hiền đều toát lên một vẻ đẹp của nhân cách, của lối sống văn hoá, của một bản lĩnh. Đó là con người luôn giữ vững những quan niệm và cách sống của mình, không bị biến suy theo những đổi thay của thời cuộc, lại tỉnh táo sáng suốt, không xu thời nhưng cũng không để bị rơi vào tình thế của kẻ lạc thời. Sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, giàu có; thời trẻ cô Hiền được cha mẹ cho phép mở một xa lông văn chương, nơi gặp gỡ của nhiều văn nhân nghệ sĩ có tiếng của đất Hà thành. Như thế, cô thuộc thế hệ tân tiến trong lớp thanh niên thành thị thời trước cách mạng. Nhưng việc cô lấy chồng lại chọn “một ông giáo cấp tiểu học hiền lành, chăm chỉ, khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc”. Điều đó thể hiện rõ sự lựa chọn tỉnh táo và những quan niệm nghiêm túc của cô về hôn nhân và gia đình. Nhưng việc dạy dỗ con cái của cô là nhằm hướng tới cái quan trọng nhất trong nhân cách một con người… 6. Tình huống truyện Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa thuộc loại tình huống cắt nghĩa giây phút “giác ngộ” chân lí của nhân vật. Điều đó thể hiện rõ nét thông qua quá trình nhận thức khá quanh co và được “vỡ ra” từ hiện thực cuộc sống của nhiếp ảnh Phùng và chánh án Đẩu. Để có được một tấm lịch nghệ thuật thuyền và biển theo yêu cầu của trưởng phòng, nhiếp ảnh Phùng tới một vùng biển vốn là chiến trường cũ của anh. Và mất mấy ngày “săn tìm”, anh mới “chộp” được một tấm hình như ý. Đó là một sản phẩm quý hiếm của hóa công mà trong đời người nghệ sĩ không phải khi nào cũng có được. Nó giống như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Phùng trở nên bối rối và “trong tim như có cái gì bóp thắt vào”. Anh cảm thấy mình vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nhưng bước ra từ chiếc thuyền là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; một gã đàn ông to lớn dữ dằn; một cảnh tượng tàn nhẫn gã chồng đánh đập vợ một cách thô bạo; đứa con thương mẹ đã đánh lại cha. Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ, như “chết lặng”, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt. Tuy nhiên, đó mới là phần khởi đầu của truyện cũng như của tình huống. Cuộc tiếp xúc giữa chánh án Đẩu và người đàn bà hàng chài đẩy tình huống truyện lên tầm cao của giá trị nhận thức. Theo lời mời của chánh án Đẩu – người có ý định khuyên bảo, thậm chí đề nghị người đàn bà ấy từ bỏ lão chồng vũ phu. Nhưng trước toà án, chị ta đã từ chối quyết liệt với những lí do không khỏi Phùng và Đẩu “đau đầu” suy nghĩ Đó là vì gã chồng ấy là chỗ dựa quan trọng của những đàn bà hàng chài như chị, nhất là khi biển động, phong ba. Hơn thế nữa, chị còn có những đứa con, chị phải sống vì chúng nhiều hơn là cho bản thân chị. Và quan trọng hơn là trên thuyền cũng có những lúc vợ chồng, con cái sống hoà thuận, vui vẻ… Như vậy, tình huống truyện trong Chiếc thuyền ngoài xa giống như một vòng tròn đồng tâm mà người nhiếp ảnh Phùng cũng như chánh án Đẩu đều phải trải qua một quá trình nhận thức để đạt đến trạng thái “đốn ngộ” cho tâm hồn. Nguồn Dẫn theo bài viết HƯỚNG DẪN HỌC SINH VẬN DỤNG THI PHÁP HỌC VÀO DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU NĂM 1975 của Chu Đình Kiên, Trần Thị Hương Ngày đăng 19/03/2020, 2305 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ NĂM HOÀNG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 - NHÌN TỪ GĨC ĐỘ THỂ LOẠI LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Hà Nội - 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ NĂM HOÀNG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 - NHÌN TỪ GĨC ĐỘ THỂ LOẠI Chun ngành Văn học Việt Nam Mã số 62 22 34 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC GS TS LÊ VĂN LÂN PGS TS HÀ VĂN ĐỨC Hà Nội - 2016 LỜI CẢM ƠN Tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS TS Lê Văn Lân PGS TS Hà Văn Đức Khoa Văn học, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, ngƣời thầy tận tình hƣớng dẫn tơi trình nghiên cứu thực luận án Xin đƣợc gửi lời cảm ơn trân trọng tới thầy giáo đào tạo, dìu dắt tơi nhiều năm qua để tơi có đƣợc tri thức phƣơng pháp nghiên cứu khoa học Tôi xin cảm ơn thầy cô giáo đồng nghiệp Khoa Văn học – Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn luôn động viên, tạo điều kiện cho tơi q trình học tập, cơng tác hoàn thành luận án NGHIÊN CỨU SINH Nguyễn Thị Năm Hồng LỜI CAM ĐOAN Tơi xin cam đoan rằng - Luận án Tiến sĩ kết nghiên cứu riêng dƣới hƣớng dẫn tập thể hƣớng dẫn khoa học, chƣa đƣợc cơng bố cơng trình nghiên cứu ngƣời khác - Kết nghiên cứu nhà nghiên cứu khác đƣợc tiếp thu cách trung thực, cẩn trọng luận án NGHIÊN CỨU SINH Nguyễn Thị Năm Hoàng MỞ ĐẦU Lý chọn đề tài “Thể loại văn học chất phản ánh khuynh hƣớng phát triển vững bền, vĩnh văn học, thể loại văn học tồn để gìn giữ, đổi thƣờng xuyên khuynh hƣớng Do mà thể loại văn học ln vừa mới, vừa cũ, vừa biến đổi, vừa ổn định” [150, Trong trình sáng tạo, nhà văn kiến tạo tác phẩm thuộc thể loại định, mặt bảo lƣu đặc trƣng cốt yếu thể loại, mặt khác khơng ngừng tìm tòi, cách tân để tác phẩm có đƣợc diện mạo, sức sống riêng, nhờ góp phần làm nên biến đổi, phát triển thể loại Việc quan sát vận động thể loại văn học công việc cần thiết, có ý nghĩa quan trọng nghiên cứu lịch sử văn học nói chung Văn học Việt Nam đầu kỷ XX thực công đại hóa mau lẹ phức tạp để tiến bƣớc dài từ phạm trù trung đại sang phạm trù đại, từ quỹ đạo vùng Đông Á gia nhập vào quỹ đạo toàn giới Một biểu rõ nét cơng đại hóa phá vỡ mơ hình thể loại truyền thống, hình thành cấu trúc thể loại với tự sự, trữ tình kịch Vận động dòng chảy chung văn học, truyện ngắn đại đƣợc hình thành qua giai đoạn 1932 – 1945, 1945 – 1975 đạt đƣợc nhiều thành tựu, đánh dấu bƣớc quan trọng thể loại Năm 1975, chiến tranh kết thúc, miền Nam đƣợc giải phóng, đất nƣớc thống nhất, sống trở với quỹ đạo bình thƣờng Hồn thành sứ mệnh phục vụ kháng chiến, văn học từ năm 1975 đến vừa kế thừa thành tựu giai đoạn trƣớc, vừa vận động phát triển với nguyên tắc, khuynh hƣớng, đặc điểm Nếu nhƣ thơ ca phải đợi đến sau năm 1986 thực có đƣợc bƣớc ngoặt quan trọng cho q trình đổi văn xi, q trình đƣợc khởi tạo sau năm 1975 Với cách nhìn mẻ ngƣời thực, nhiều tác giả văn xuôi bƣớc đổi phƣơng thức xây dựng hình tƣợng nghệ thuật đặc điểm thi pháp tác phẩm, sớm phải kể tới tiểu thuyết Lê Lựu Thời xa vắng, Ma Văn Kháng Mưa mùa hạ, Mùa rụng vườn, Nguyễn Mạnh Tuấn Đứng trước biển, Cù lao Tràm, Nguyễn Khải Cha Con, và…, Gặp gỡ cuối năm hay truyện ngắn Thái Bá Lợi Hai người trở lại trung đoàn, Xuân Thiều Gió từ miền cát, Nguyễn Minh Châu Người đàn bà chuyến tàu tốc hành, Bến quê… Cuộc chiến tranh vừa qua dân tộc vấn đề sự, đời tƣ, số phận ngƣời điều kiện lịch sử đƣợc tƣ duy, nhận thức cách mẻ Có thể nói, khơng đợi đến cơng đổi tồn diện đất nƣớc đƣợc Đảng khởi xƣớng vào cuối năm 1986, nhu cầu đổi tƣ thể nghiệm đổi đƣợc nhà văn thực hoá mạnh mẽ văn chƣơng chiến tranh kết thúc, đất nƣớc bƣớc vào giai đoạn hòa bình, dựng xây Những biến chuyển phác thảo nên thời kỳ phát triển cho văn học thời kỳ đƣơng đại Trong tranh chung đó, thành tựu đổi truyện ngắn đƣợc xác lập sớm sơi Có thể nói thể loại tự cỡ nhỏ động, linh hoạt chứng tỏ nhạy bén nhƣ ƣu bƣớc chuyển định hình văn học Việt Nam bốn mƣơi năm qua Thực tế đặt nhiệm vụ tìm hiểu diện mạo lịch sử truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn thể loại Đã có cơng trình nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 mảng vấn đề, khía cạnh khác nhau, chẳng hạn nghiên cứu tác giả nhóm tác giả truyện ngắn tiêu biểu; phận truyện ngắn đƣợc đăng tải số tờ báo, tạp chí; đặc điểm truyện ngắn vùng miền, chặng đƣờng phát triển cụ thể Theo quan sát chúng tôi, tiểu thuyết thơ đƣợc quan tâm nghiên cứu cách bao quát chi tiết nhiều công trình khoa học lý luận nhƣ lịch sử thể loại, đến thiếu vắng cơng trình soi rọi cách có hệ thống truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 từ góc độ thể loại để thấy đƣợc vận động biến đổi thể loại giai đoạn so với giai đoạn trƣớc, nhƣ tƣơng quan với thể loại khác giai đoạn – tức đƣợc đặc điểm thể loại xét từ hai chiều lịch đại đồng đại Xuất phát từ tiền đề lý luận thực tiễn nhƣ trên, luận án lựa chọn đề tài nghiên cứu Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - nhìn từ góc độ thể loại Đối tƣợng phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Chúng xác định đối tƣợng nghiên cứu luận án đặc điểm cho thấy vận động đổi truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 xét phƣơng diện thể loại, đặc điểm dung lƣợng, tình huống, kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ giọng điệu Phạm vi nghiên cứu Về phạm vi nghiên cứu, luận án khảo sát nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam giai đoạn từ năm 1975 đến Tuy nhiên, đứng trƣớc diện vô đa dạng phong phú truyện ngắn văn học Việt Nam giai đoạn này, với số lƣợng lớn tác giả, tác phẩm nhiều kiểu loại, nhiều khuynh hƣớng, phong cách, tập trung nghiên cứu nhiều vào tác phẩm thể rõ vận động, đổi thể loại, phù hợp với hƣớng tiếp cận chúng tơi Đó tác phẩm đạt giải thƣởng văn học, tác phẩm công bố tạo nên dƣ luận sôi nổi, tác phẩm nhà văn định hình phong cách, đƣợc biết đến rộng rãi công chúng văn học, đƣợc giáo trình, viết có uy tín văn học Việt Nam giai đoạn đánh giá tiêu biểu Với giới hạn quy mô khả bao quát tƣ liệu, sáng tác truyện ngắn tiếng Việt nƣớc giai đoạn không thuộc phạm vi nghiên cứu luận án Do đối tƣợng nghiên cứu tiếp tục vận động phát triển, xác định mốc thời gian sau cho tác phẩm phạm vi khảo sát luận án truyện ngắn đƣợc xuất năm 2014 Chúng tơi hy vọng thơng qua đó, thấy đƣợc, tất cả, đặc điểm bật truyện ngắn Việt Nam sau 1975 từ góc độ thể loại Bên cạnh đó, số truyện ngắn tiêu biểu giai đoạn phát triển trƣớc số tác phẩm đồng đại thuộc thể loại khác đƣợc liên hệ, đối sánh tới cần thiết Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Với đề tài Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại, luận án hƣớng đến mục đích nhận diện đặc điểm thi pháp truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975, từ tổng kết, khái quát thành tựu nhƣ điểm dừng, hạn chế thể loại bối cảnh chung văn học Việt Nam đƣơng đại Nhiệm vụ nghiên cứu Trên sở khảo sát đối tƣợng nghiên cứu, luận án tìm hiểu vận động mặt thể loại truyện ngắn Việt Nam sau 1975 phƣơng diện co giãn dung lƣợng tác phẩm, xâm nhập giao thoa phƣơng thức tự sự, vận động kiểu tình chính, đa dạng hóa hình thức kết cấu, nghệ thuật xây dựng nhân vật ngôn ngữ Luận án đặt truyện ngắn Việt Nam sau 1975 tiến trình vận động phát triển thể loại truyện ngắn Việt Nam, đƣợc tính kế thừa biến thiên, cách tân thể loại giai đoạn so với giai đoạn trƣớc Từ đó, đƣa số đánh giá thành tựu lý giải điểm dừng, giới hạn truyện ngắn bối cảnh chung thể loại văn học đƣơng đại Việt Nam Đạt đƣợc mục đích trên, luận án đƣa nhìn tổng quan truyện ngắn văn học Việt Nam sau 1975 nhìn từ góc độ thể loại, trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu văn xi nói riêng, văn học Việt Nam nói chung Phƣơng pháp nghiên cứu Luận án áp dụng thi pháp học tự học vào việc phân tích, tìm hiểu đặc trƣng truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Với ý nghĩa cơng trình nghiên cứu giai đoạn phát triển thể loại, trƣớc hết, vận dụng phƣơng pháp thực chứng lịch sử để mô tả, khái quát tình hình vận động phát triển truyện ngắn phƣơng diện làm nên đặc trƣng thể loại Từ đó, luận án vừa tổng kết đối tƣợng, vừa đƣa đƣợc so sánh, liên hệ đối tƣợng với truyện ngắn Việt Nam giai đoạn trƣớc Bên cạnh đó, phƣơng pháp loại hình đƣợc vận dụng chƣơng mở đầu luận án nhằm phân chia đối tƣợng nghiên cứu thành kiểu, loại với tiêu chí nhận diện cụ thể Phƣơng pháp giúp cho luận án, chƣơng tiếp theo, nhìn nhận phƣơng diện làm nên đặc trƣng thể loại truyện ngắn giai đoạn tình huống, kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ nhƣ tổng thể với nhiều nhóm đối tƣợng đƣợc phân loại khảo sát cách độc lập tƣơng đối, vừa thống nhất, vừa đa dạng Các thao tác khoa học cụ thể đƣợc vận dụng luận án nhƣ sau Thao tác thống kê, phân loại, hệ thống hoá nhằm nhận diện nhóm đối tƣợng khảo sát đặc điểm chúng nhƣ kiểu truyện, kiểu tình huống, kết cấu, nhân vật Thao tác phân tích, tổng hợp, khái quát nhằm đƣa nhận định khoa học, minh chứng đối tƣợng khảo sát, từ đánh giá, lý giải kết luận thu đƣợc Thao tác so sánh thao tác khoa học quan trọng để nhìn nhận đối tƣợng nghiên cứu liên hệ, tƣơng quan, đối sánh, soi rọi từ nhiều góc độ, qua tƣơng đồng khác biệt truyện ngắn kiểu khác nhau, tác giả khác nhau… Sự vận động thể loại so với giai đoạn trƣớc biến chuyển bên thân đối tƣợng giai đoạn này, nhờ thế, đƣợc làm rõ Đóng góp luận án Luận án cơng trình khoa học áp dụng lý thuyết tự học thi pháp học vào việc nghiên cứu thể loại truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Tuy có số cơng trình theo hƣớng nghiên cứu này, nhƣng với phạm vi nghiên cứu rộng lớn hƣớng triển khai mình, luận án cơng trình khảo sát đối tƣợng để đến nhận định, tổng kết khái quát đặc điểm thi pháp, vận động thành tựu truyện ngắn Việt Nam bốn mƣơi năm qua Vì thế, luận án khơng góp phần làm sáng tỏ vấn đề có tính lý luận thể loại, mà khảo sát gắn với quan điểm việc phân kỳ tổng kết văn học sử Cùng với cơng trình nghiên cứu tổng quan thể loại khác tiểu thuyết, thơ , luận án góp phần đƣa hình dung khái quát chặng đƣờng bốn mƣơi năm vận động phát triển văn học Việt Nam thời kỳ đƣơng đại Luận án cung cấp tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu, giảng dạy học tập ngành Văn học trƣờng Đại học, Cao đẳng, cho độc giả quan tâm văn học Việt Nam sau 1975 Cấu trúc luận án Luận án bao gồm Mở đầu, Nội dung, Kết luận Tài liệu tham khảo Nội dung đƣợc chia thành bốn chƣơng - Chƣơng 1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu - Chƣơng 2 Tình kết cấu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - Chƣơng 3 Nhân vật truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - Chƣơng 4 Ngôn ngữ truyện ngắn Việt Nam sau 1975 10 113 Nhiều tác giả 2012, Tiếp nhận văn học nghệ thuật, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 114 Phạm Phú Phong 2005, “Thái Bá Lợi với tiểu thuyết viết chiến tranh sau năm 1975”, Truy cập ngày 03/03/2008 115 Huỳnh Nhƣ Phƣơng 1991, “Văn xuôi năm 80 vấn đề dân chủ hóa văn học”, Tạp chí Văn học 4, 116 Pôxpêlốp Chủ biên 1985, Dẫn luận nghiên cứu văn học, T II, NXB Giáo dục, Hà Nội 117 Lê Hồ Quang 2012, “Cảm hứng truyện ngắn Lê Minh Khuê”, Tạp chí Nghiên cứu văn học 3, 118 Saussure F 1973, Giáo trình Ngơn ngữ học đại cương, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 119 Shoyo T 2013, Chân tủy tiểu thuyết, Trần Hải Yến dịch giới thiệu, NXB Thế giới, Hà Nội 120 Trần Đình Sử 1987, Thi pháp thơ Tố Hữu, NXB Tác phẩm mới, Hà 121 Trần Đình Sử 2000, Lý luận phê bình văn học, NXB Giáo dục, Nội Hà Nội 122 Trần Đình Sử 2001, Văn học thời gian, NXB Văn học, Hà Nội 123 Trần Đình Sử Chủ biên 2004, Tự học Một số vấn đề lý luận lịch sử, NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội 124 Trần Đình Sử Chủ biên 2008, Tự học Một số vấn đề lý luận lịch sử, NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội 174 125 Trần Đăng Suyền 2002, Nhà văn thực đời sống cá tính sáng tạo, NXB Văn học, Hà Nội 126 Nguyễn Bá Thành 2006, Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 127 Phạm Xuân Thạch 2005, “Tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại, suy nghĩ từ tác phẩm mang chủ đề lịch sử”, Truy cập ngày 3/3/2008 128 Phạm Xuân Thạch 2013, “Văn Việt - qua quyển”, Tạp chí Lý luận Phê bình Văn học, nghệ thuật 9, 129 Phạm Xuân Thạch 2014, Sự khởi sinh tính đại - Trần thuật Việt Nam ba thập niên đầu kỷ XX, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội 130 Bùi Việt Thắng 1999, Bình luận truyện ngắn, NXB Văn học, Hà 131 Bùi Việt Thắng 2000, Truyện ngắn - Những vấn đề lý thuyết Nội thực tiễn thể loại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 132 Bùi Việt Thắng 2005, Tiểu thuyết đương đại, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội 133 Phạm Thị Thật 2009, Truyện ngắn Pháp cuối kỷ XX – số vấn đề lý thuyết thực tiễn sáng tác, NXB Giáo dục, Hà Nội 134 Đoàn Cầm Thi 2004, “Chiến tranh, tình yêu, dục vọng văn học Việt Nam đƣơng đại”, Truy cập ngày03/03/2008 135 Nguyễn Huy Thiệp 2005, Giăng lưới bắt chim, NXB Hội Nhà văn - Cơng ty Văn hóa Đơng A, Hà Nội 136 Nguyễn Quang Thiều Chủ biên 2000, Tác giả nói tác phẩm, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh 137 Xuân Thiều 2005, Tiếng nói cảm xúc, NXB Phụ nữ, Hà Nội 175 138 Lƣu Khánh Thơ 2005, “Từ quan niệm thơ đến lý luận tiểu thuyết - Bƣớc tiến đƣờng đại hóa văn học dân tộc” Tạp chí Nghiên cứu văn học 4, 139 Bích Thu 1996, “Những thành tựu truyện ngắn sau 1975”, Tạp chí Văn học 9, 140 Bích Thu 1998, Theo dòng văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 141 Bích Thu 1999, “Những dấu hiệu đổi văn xuôi từ sau 1975 qua hệ thống mơ típ chủ đề”, Tạp chí Văn học 01, 142 Bích Thu 2008, “Yếu tố trữ tình truyện ngắn Lƣu Quang Vũ”, Tạp chí Nghiên cứu văn học 9, 143 Lý Hoài Thu 2006, Đồng cảm sáng tạo, NXB Văn học, Hà Nội 144 Phan Ngọc Thu 2008, “Thái Bá Lợi trình đổi bút pháp sáng tạo”, http // Truy cập ngày 20/5/2014 145 Đỗ Lai Thúy 2011, Phê bình văn học, vật lưỡng thê ấy, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội 146 Hỏa Diệu Thúy 2010, Truyện ngắn đại Việt Nam 1945 - 1975, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội 147 Lê Hƣơng Thủy 2006, “Truyện ngắn sau 1975 - số đổi thi pháp”, Tạp chí Nghiên cứu văn học 11, 148 Lê Hƣơng Thủy 2013, Truyện ngắn Việt Nam sau 1986 - nhìn từ góc độ thể loại, Luận án tiến sĩ Văn học, Học viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội 149 Todorov T 2004, Thi pháp văn xuôi, Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch, NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội 150 Lê Ngọc Trà 2005, Lý luận văn học, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh 176 151 Ngọc Trai 1987, “Sự khám phá ngƣời Việt Nam qua truyện ngắn”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội 10, 152 Phạm Thị Ngọc Trâm 2002, “Về tƣợng mƣợn truyện cổ dân gian truyện ngắn từ sau năm 1975”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật 6, 153 Bùi Thanh Truyền 2006, “Yếu tố kỳ ảo văn xuôi đƣơng đại Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội 154 Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội - Khoa Ngữ văn - Bộ môn Văn học nƣớc 2013, Văn học hậu đại - Lý thuyết thực tiễn, NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội 155 Trƣờng Đại học Vinh - Khoa Ngữ văn 2012, Tiểu thuyết truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến nay, NXB Đại học Vinh, Nghệ An 156 Lê Dục Tú 2007, “Thể loại truyện ngắn đời sống văn học đƣơng đại”, Tạp chí Nghiên cứu văn học 2, 157 Lê Dục Tú 2012, “Đội ngũ nhà văn viết truyện ngắn đƣơng đại”, http Truy cập ngày 12/3/2012 158 Lê Dục Tú 2012, “Truyện ngắn đƣơng đại đề tài chiến tranh - đổi tƣ thể loại”, http Truy cập ngày 12/3/2012 159 Nguyễn Thanh Tú 2009, Văn học người lính, NXB Văn học, Hà 160 Trịnh Thu Tuyết 1999, “Nguyễn Minh Châu với nghệ thuật xây Nội dựng nhân vật truyện ngắn”, Tạp chí Văn học 1, 161 Dƣơng Tƣờng 2010, Chỉ chích chòe, NXB Hội Nhà văn, Hà 162 Phùng Văn Tửu 1996, “Một phƣơng diện truyện ngắn”, Tạp chí Nội Văn học 2, 177 163 Dƣơng Phƣơng Vinh 2005, “Đỗ Hồng Diệu Bóng đè ngày giơng bão”, Truy cập ngày 7/6/2014 164 Vƣgốtxki L X 1995, Tâm lý học nghệ thuật, Hoài Lam dịch, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 165 Xô-skin 1962, Vận dụng thể truyện ngắn, NXB Văn học, Hà Nội 166 Zohar I E 2014, Lý thuyết đa hệ thống nghiên cứu văn hóa, văn chương, Trần Hải Yến, Nguyễn Đào Nguyên dịch, NXB Thế giới, Hà Nội Tiếng Anh 167 Neuage T 1997, Influence of the World Wide Web on literature, Masters thesis, University of South Australia, Truy cập ngày 18/10/2010 Tiếng Pháp 168 Aron P., Saint – Jacques D., Viala A 2004, Le dictionaire du litéraire, Deuxième édition revue et augmentée, Quadrige/ PUF, Paris 169 Grojnowski D 1993, Lire la nouvelle, Dunod, Paris 170 Jauss H R 1978, Pour une esthétique de la réception, traduit de l’ Allemand par Claude Maillard, Gallimard, Paris 171 Montalbetti C 2003, Le personnage, GF Corpus, Paris 172 Piegay - Gros N., 2002, Le lecteur, GF Corpus, Paris 173 Souriau E 1990, Vocabulaire d’esthétique, Press universitaires de France, Paris 178 PHỤ LỤC Bảng 1 Định hƣớng nhận thức nhan đề tập Truyện ngắn hay Việt Nam thời kỳ đổi mới, tập NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000 Gây ý vào số Tóm lƣợc, bao quát nội Hạn chế định hƣớng yếu tố truyện dung câu chuyện 7/30 ≈ 24% 13/30 ≈ 43% 10/30 ≈ 33% Chiếc thuyền xa Một lần đối chứng Thanh minh trời sáng Tiếng dội từ rừng đƣớc Dƣới đáy vực Ngƣời bào chế thuốc Bên gốc bàng Lãng tử Quãng vắng giảm đau Tiếng khóc tiếng hát Trang viết bão Lên ruồi Ngƣời kể chuyện thuê Gặp lại Đạo tƣởng Ảnh đen trắng Tình buồn Gió heo may Nghĩa địa xóm Chùa Những ngƣời đàn bà Quyền khơng điên Con mèo Foujita Tự truyện Lá quốc thƣ Hai ông cháu ngƣời chủ xƣa Bụi cỏ đƣờng làng Sự tích ngày đẹp trời 179 Con mèo Tƣớng hƣu Muối rừng 180 Bảng 2 Định hƣớng nhận thức nhan đề tập 33 truyện ngắn chọn lọc 1945 – 1975 NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1976 Gây ý vào số Tóm lƣợc, bao quát nội Hạn chế định hƣớng yếu tố truyện dung câu chuyện 3/33 ≈ 9% 18/33 ≈ 55% 12/33 ≈ 36% Ngƣời kháng chiến Một lần tới thủ đô Mầm sống Đôi mắt Kỷ niệm ngƣời xa Đêm hồng Mảnh trăng cuối rừng Mùa cá bột Những đò danh dự Quê hƣơng Khác trƣớc Con chị Lộc Mùa lạc Ngƣời tị nạn Lặng lẽ Sa Pa Tiếng nói Rẻo cao Anh Keng Mùa nấm tràm Vợ nhặt Một chuyện vui Ngƣời cầm súng Chuyện bên bờ sông Vàm Cỏ Ngƣời thợ chữa đồng hồ Chuyện xóm tơi đƣờng hầm số Ông Bồng Về làng Thƣ nhà 181 Chiếc cán búa Ngƣời tù binh da đen Cái lạt Bức thƣ làng Mực Con trâu bạc 182 Bảng 3 Khảo sát đơn vị ngôn ngữ nhan đề tập Như gió Nguyễn Huy Thiệp NXB Văn học, Hà Nội, 1995 Từ, tổ hợp từ Ngữ Tâm hồn mẹ Mệnh đề, câu Những học nông Chảy sơng thơn Tƣớng hƣu Sang sơng Khơng có vua Cún Truyện tình kể Chút thống Xn Hƣơng đêm mƣa Huyền thoại phố Vàng lửa phƣờng Muối rừng Kiếm sắc Con gái thủy thần Đời mà vui Giọt máu Thƣơng nhớ đồng quê Mƣa Chăn trâu cắt cỏ Những ngƣời thợ xẻ Thƣơng cho đời bạc Phẩm tiết Hạc vừa bay vừa kêu thảng Nguyễn Thị Lộ Khơng khóc California Trƣơng Chi Thiên văn 183 Mƣa Nhã Nam Tội ác trừng phạt Những gió Hua Tát 184 Bảng 4 Khảo sát đơn vị ngôn ngữ nhan đề tập Màu xanh man trá Lê Minh Khuê NXB Phụ nữ, Hà Nội, 2005 Từ, tổ hợp từ Ngữ Mệnh đề, câu Mong manh Câu chuyện tác thành Mờ mờ nhân ảnh Ronan Keating Thành phố nhà cao Qua vƣờn đến trƣờng Đầu máy nƣớc Vƣờn xa Đùa cho vui Ngọn lửa Bánh khoái miền Trung Số phận may rủi Hai bờ Xứ lạ Nƣớc cỏ xanh Trò chơi cờ bạc Lƣng chừng trời Màu xanh man trá Quà biển 185 Bảng 5 Khảo sát kiểu tình tập Truyện ngắn Việt Nam kỷ XX giai đoạn 1976 - 2000, tập 29 NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2002 Kiểu tình STT Tên truyện Nhận thức Hành động Tâm trạng Hoa cho ngày cƣới X Mùa hoa cải bên sông X Ngƣời đàn bà tóc trắng X Hai ngƣời đàn bà xóm Trại X Hồi ức làng Che X Ốc mƣợn hồn X Ngƣời hùng trƣờng làng X Sau mùa trăng X Ngải đắng núi X 10 Khơng nhan sắc 11 Có đêm nhƣ 12 Ngƣời lùn truyện cổ Grim 13 Tiên bay trời X 14 Sinh vào đêm trăng sáng X 15 Chiếc bình đựng ký ức X X X X Tổng số, tỉ lệ 20% 186 33% 47% MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 LÝ DO CHọN Đề TÀI ĐốI TƢợNG VÀ PHạM VI NGHIÊN CứU MụC ĐÍCH VÀ NHIệM Vụ NGHIÊN CứU PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CứU ĐÓNG GÓP MớI CủA LUậN ÁN 10 CấU TRÚC CủA LUậN ÁN 10 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 11 TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 11 Nghiên cứu lý luận truyện ngắn 11 Nghiên cứu tổng quan truyện ngắn Việt Nam sau 1975 17 Nghiên cứu hệ vấn đề truyện ngắn Việt Nam sau 1975 21 Nghiên cứu thành tựu phong cách tác giả, nhóm tác giả tiêu biểu 22 Nghiên cứu thành tựu đổi nghệ thuật truyện ngắn 25 Nghiên cứu tương tác truyện ngắn với thể loại khác văn học Việt Nam sau 1975 28 Tiếp cận tác phẩm truyện ngắn cụ thể 29 CÁC KIỂU TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 34 Các kiểu truyện tiếp tục khuynh hƣớng vận động trƣớc năm 1975 .36 Các kiểu truyện mang khuynh hƣớng đƣơng đại 38 CHƢƠNG 2 TÌNH HUỐNG VÀ KẾT CẤU TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 44 TÌNH HUỐNG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 44 Sự chuyển biến nghệ thuật xây dựng tình 45 Các kiểu tình .48 Tình nhận thức 48 Tình hành động 51 Tình tâm trạng 54 KẾT CẤU TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 58 Các phƣơng thức kết cấu 61 Kết cấu theo lôgic nhân 62 Kết cấu đa tầng 69 Kết cấu lắp ghép 71 Kết cấu liên hoàn 75 187 Các thành tố bổ trợ kết cấu 77 Nhan đề 77 Mở đầu 82 Đoạn kết 84 CHƢƠNG 3 NHÂN VẬT TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 90 CÁC KIỂU NHÂN VẬT CHỦ ĐẠO 91 Nhân vật tƣ tƣởng 93 Nhân vật tính cách – số phận 98 Nhân vật tự chủ 98 Nhân vật bi kịch 102 Nhân vật tha hóa 109 CÁC PHƢƠNG THỨC XÂY DỰNG NHÂN VẬT .114 Khắc họa chân dung – ngoại hình, hành động nhân vật .115 Phân tích tâm lý nhân vật 116 Sáng tạo chi tiết nghệ thuật 121 CHƢƠNG 4 NGÔN NGỮ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 .129 NGÔN NGỮ GẦN GŨI VỚI NGÔN NGỮ ĐỜI SỐNG THÔNG TỤC 129 Trên phƣơng diện từ ngữ .130 Trên phƣơng diện cú pháp 138 TÍNH CHẤT GIAO THOA THỂ LOẠI TRONG NGƠN NGỮ 144 Sự giao thoa ngôn ngữ truyện ngắn ngôn ngữ thơ 144 Sự giao thoa ngôn ngữ truyện ngắn ngôn ngữ kịch 149 Sự giao thoa ngôn ngữ truyện ngắn ngôn ngữ báo chí 153 KẾT LUẬN 159 DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .163 TÀI LIỆU THAM KHẢO 164 PHỤ LỤC……………………………………………………………………… 179 188 ... nghiên cứu Với đề tài Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại, luận án hƣớng đến mục đích nhận diện đặc điểm thi pháp truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975, từ tổng kết, khái quát... nghiên cứu - Chƣơng 2 Tình kết cấu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - Chƣơng 3 Nhân vật truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - Chƣơng 4 Ngôn ngữ truyện ngắn Việt Nam sau 1975 10 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN... tạo nên nhìn khái qt đối tƣợng nghiên cứu từ góc độ thể loại Nghiên cứu hệ vấn đề truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Bên cạnh cơng trình nghiên cứu tổng quan truyện ngắn Việt Nam sau 1975 để - Xem thêm -Xem thêm Truyện ngắn việt nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại , ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Nguyễn Thị Phương Thảo TRUYỆN NGĂN VIỆT NAM SAU NĂM 1975 VIẾT VỀ CHIẾN TRANH Chuyên ngành Lí luận văn học Mã số 62 22 01 20 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Hà Nội - 2016 1 Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội Người hướng dẫn khoa học Trần Khánh Thành Phản biện 1 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . Phản biện 2 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . Phản biện 3 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp ….. họp tại . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . Vào hồi giờ ngày tháng năm 20... Có thể tìm hiểu luận án tại - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội 2 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN [1]. Nguyễn Thị Phương Thảo 2013, “Diện mạo truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh của Nguyễn Minh Châu trong hai thời kỳ sáng tác”, Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật Quân đội, số 3 + 4, tr. 52 - 53 và 72. [2]. Nguyễn Thị Phương Thảo 2014, “Truyện ngắn về chiến tranh qua các cuộc thi trên Văn nghệ Quân đội đầu thế kỉ XXI”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 810 và 81, tr. 162 – 167. [3]. Nguyễn Thị Phương Thảo 2016, “Cảm hứng nhân bản trong truyện ngắn Việt Nam viết về chiến tranh sau 1975”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 839, tr. 91 - 96. [4]. Nguyễn Thị Phương Thảo 2016, “Yếu tố giấc mơ và kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam đương đại viết về chiến tranh”, Tạp chí Lí luận Phê bình Văn học, nghệ thuật, số 44, tr. 60 – 64. [5]. Nguyễn Thị Phương Thảo 2016, “Nhân vật người lính trong truyện ngắn Việt Nam đương đại”, Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, số 382, tr. 82 – 85. 3 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Hiện nay, những công trình nghiên cứu về đề tài truyện ngắn chiến tranh chưa nhiều. Trong khuôn khổ một bài viết ngắn hoặc một mục nhỏ của công trình, các vấn đề được đặt ra rải rác,diện khảo sát thường hẹp về số lượng tác phẩm. Nghiên cứu truyện ngắn chiến tranh từ sau 1975 dưới một số góc độ nội dung và nghệ thuật, chúng tôi hi vọng sẽ đem lại cái nhìn tương đối toàn diện về mảng truyện ngắn này với nhiều giá trị đặc sắc còn tiềm ẩn. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích Trên cơ sở khảo sát nghiên cứu truyện ngắn sau 1975 viết về chiến tranhtrong sự so sánh đồng đại với truyện ngắn nói chung, với tiểu thuyết về chiến tranh…và sự so sánh lịch đại truyện ngắn chiến tranh giai đoạn trước 1975, luận án muốn tìm ra những đặc điểm, yếu tố kế thừa và cách tân của truyện ngắn khi viết về đề tài chiến tranh. Nhiệm vụ Qua việc tổng hợp tư liệu, luận án sẽ làm sáng rõ những vấn đề lí luận cơ bản về sự thay đổi tư duy nghệ thuật, một số yếu tố thi pháp đặc trưng thể loại truyện ngắn và phân tích cụ thể trong sáng tác về chiến tranh. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng Một số phương diện quan trọng về nội dung, nghệ thuật, đặc điểm của truyện ngắn viết về chiến tranh nhìn từ thời bình. Sự thay đổi cách nhìn hiện thực, thế giới nhân vật đa chiều, những đặc sắc trong phương thức biểu hiện của truyện ngắn chiến tranh đương đại. 4 Phạm vi Luận án nghiên cứu những tác phẩm tiêu biểu trong các tuyển tập truyện ngắn hay về chiến tranh, truyện ngắn hay và đoạt giải Tạp chí Văn nghệ quân đội được tuyển chọn từ 1975 đến năm 2016. Bên cạnh đó là truyện ngắn về chiến tranh của các tác giả tiêu biểu nhưNguyễn Minh Châu,Bảo Ninh, Sương Nguyệt Minh, Trung Trung Đỉnh, Chu Lai, Võ Thị Hảo, Trần Thanh Hà, Vũ Thị Hồng...Đồng thời, luận án cũng đề cập đến những truyện ngắn gần đây về chiến tranh trong phạm vi mà tác giả cập nhật được. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện, luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau phương pháp lịch sử- xã hội, phương pháp so sánh, phương pháp tiếp cận thi pháp học, phương pháp loại hình, phương pháp nghiên cứu liên ngành 5. Đóng góp mới của luận án Qua việc tìm hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 về chiến tranh, luận án bổ sung một cách nhìn truyện ngắn đương đại. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn khảo sát tác phẩm, luận án đánh giá tác động của sự thay đổi bối cảnh hiện thực và tư tưởng, quan niệm nghệ thuật đến truyện ngắn về chiến tranh. Luận án chỉ ra những nét đặc trưng, kế thừa và cách tân trên một số phương diện nghệ thuật cơ bản của truyện ngắn sau 1975 viết về chiến tranh cốt truyện, tình huống, nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ và giọng điệu. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được tổ chức thành bốn chương như sau Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2. Hiện thực chiến tranh với những hướng tiếp cận mới 5 Chương 3. Các loại hình nhân vật chủ yếu Chương 4. Những phương thức nghệ thuật đặc sắc 6 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Đặc trưng thể loại truyện ngắn Khái niệm Một số đặc trưng của truyện ngắn hiện đại Phương thức chiếm lĩnh hiện thực của truyện ngắn không phải là hướng đến toàn bộ sự đầy đặn toàn vẹn như tiểu thuyết mà chỉ tập trung đặc tả một hiện tượng, một nét bản chất của con người, một khoảnh khắc ngắn ngủi của đời sống. Truyện ngắn có đặc trưng riêng về dung lượng, kết cấu, cốt truyện, tình huống, chi tiết... Văn học chiến tranh- từ những góc nhìn Từ góc nhìn của một số tác giả nước ngoài và nhìn về phía văn học Mỹ Với một đề tài mang tính nhân loại, văn học về chiến tranh nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu nước ngoài giới thiệu ở Việt Nam. Qua đó có thể thấy nhiều vấn đề, quan điểm tương đồng và có ý nghĩa như bài học kinh nghiệm. Điểm nổi bật là khẳng định vị trí, sức hấp dẫn của đề tài chiến tranh và đặt vấn đề phải viết như thế nào để nói lên được tầm vóc của cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, tâm thế của con người trong và sau chiến tranh. Một số bài viết khác đề cập đến những sáng tác của những tác giả Mỹ về cuộc chiến tranh ở Việt Nam cho rằng từ thập kỷ 1970 đến nay cuộc chiến tranh trở thành đề tài lôi cuốn nhiều người cầm bút ở Mỹ trên nhiều thể loại. Từ những ý kiến phê bình trong nước Dựa trên nhiều khuynh hướng lí thuyết với các tiêu chuẩn giá trị, sự đánh giá khác nhau, một hướng nghiên cứu phổ biến là đặt truyện ngắn về đề tài chiến tranh trong văn xuôi chiến tranh. Có thể thấy 7 mảng văn học viết về đề tài chiến tranh được nghiên cứu phê bình trên nhiều bình diện, tập trung vào vị trí của đề tài, lực lượng viết, sự thay đổi cách tiếp cận đề tài cho phù hợp với cuộc sống đương đại và cái nhìn dân chủ sau chiến tranh. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn sau năm 1975 viết về chiến tranh Những nghiên cứu về truyện ngắn sau 1975 nói chung Bên cạnh những bài viết khái quát, một số tác giả đi sâu vào vấn đề cụ thể như cảm hứng nữ quyền, truyện ngắn lịch sử, văn xuôi mạng…Những bài viết này thường xuất phát từ một vài phương diện để cắt nghĩa, giải mã những độc đáo trong sáng tác của một tác giả hay một tác phẩm, tập truyện nào số tác giả chọn cách tiếp cận truyện ngắn đương đại từ áp dụng các lí thuyết phê bình phương tây.. Các bài viết chủ yếu bàn về một số khía cạnh của truyện ngắn trong sự vận động của thể loại. Những luận án nghiên cứu truyện ngắn thường chọn một số vấn đề cơ bản để làm rõ, đó cũng là sự gợi mở cho các công trình nghiên cứu khác. Những đổi mới của truyện ngắn từ sauu 1975 về chiến tranh Một số nhà nghiên cứu chỉ ra những đổi mới về tư duy nghệ thuật biểu hiện qua đề tài, xây dựng nhân vật... Do khuôn khổ của bài viết nên các tác giả thường tập trung giải quyết một cách thấu đáo một số khía cạnh đổi mới của truyện ngắn chiến tranh. Đó cũng là vấn đề để ngỏ. Bên cạnh những bài phê bình đề cập trực tiếp đến truyện ngắn chiến tranh, cũng có một số nhà phê bình bàn về những tác phẩm, nhà văn cụ thể viết về đề tài chiến tranh như Nguyễn Minh Châu, Bảo Ninh, Từ Nguyên Tĩnh, Xuân Thiều...Cách nhìn này đem đến sự quan sát nhìn cụ thể về những tác giả, tác phẩm xuất hiện trên văn đàn, không phải cái nhìn khái quát về truyện ngắn chiến tranh. Đó cũng là gợi ý cho chúng tôi khi nghiên cứu đề tài này. Ngoài ra, bàn về văn xuôi nói 8 chung, truyện ngắn nói riêng về đề tài chiến tranh còn xuất hiện rải rác trong một số bài báo, tạp chí, luận văn khác nữa. Hiện tại, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về truyện ngắn từ sau 1975 đến nay về chiến tranh . Tiểu kết Đã có nhiều công trình, bài viết trong hơn bốn mươi năm qua bàn về lí luận truyện ngắn, văn xuôi, và truyện ngắn chiến tranh trong xu thế đổi mới chung của nền văn học. Các bài viết chủ yếu bàn đến một vài khía cạnh hoặc điểm qua vài nét về đặc điểm của truyện ngắn sau 1975 về chiến là một vấn đề còn để ngỏ, gợi mở cho chúng tôi lựa chọn đề tài Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 viết về chiến tranh. 9 CHƯƠNG 2 HIỆN THỰC CHIẾN TRANH VỚI NHỮNG HƯỚNG TIẾP CẬN MỚI Sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người Sự thay đổi quan niệm nghệ thuật và cảm hứng sáng tác Sau 1975, cùng với sự đổi mới tư duy, quan niệm về hiện thực cũng thay đổi. Hiện thực chiến tranh và hậu quả của nó được nhìn nhận một cách toàn diện sâu sắc. Quan niệm nghệ thuật về con người ngày càng toàn diện, dần chuyển từ con người công dân, chính trị sang con người cá thể được khai thác ở nhiều bình hứng lãng mạn dần được thay thế bằng cảm hứng nhân bản, nhân văn. Chiều sâu bản thể và tâm hồn con người được khai thác với trí tuệ, tư tưởng, tình cảm, bản năng, ý thức và vô thức, tâm linh... Điểm nổi bật trong truyện ngắn chiến tranh thời gian này là khắc hoạ hình tượng người lính cả từ hai chiến tuyến. Từ khuynh hướng sử thi chuyển sang khuynh hướng thế sự, đời tư Giai đoạn kháng chiến 1945-1975 ở Việt Nam là thời điểm đặc biệt sản sinh và nuôi dưỡng nền văn học sử thi. Thành công của khuynh hướng sáng tác này là đã kết tinh thành những truyện ngắn làm nổi bật chân dung những anh hùng, người con ưu tú và cộng đồng với lý tưởng chung. Sau năm 1975, nhà văn không chỉ hướng đến những vấn đề lịch sử chính trị mà còn khai phá những mảng hiện thực mới đặt ra của cuộc sống thời bình. Văn học đương đại Việt Nam về chiến tranh thiên về khai phá những mặt còn khuất lấp, những vấn đề đời tư - thế sự, hướng đến cuộc sống đa trị và qua đó thể hiện cảm quan của nhà văn. Khám phá hiện thực, con người trong tính đa dạng, đa diện Biên độ hiện thực chiến tranh được mở rộng 10 Với tâm thế của người viết đương thời, biên độ hiện thực chiến tranh được mở rộng. Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ tiếp tục được phản ánh. Cùng với đó, sự xuất hiện của nhiều truyện ngắn viết về cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam, của quân tình nguyện Việt Nam ở Lào, Cămpuchia và biên giới phía Bắc những năm sau 1975 là sự bổ sung làm nới rộng biên độ hiện thực. Hiện thực chiến tranh được biểu hiện không chỉ là những thời điểm khốc liệt của các trận chiến- nơi bộc lộ cái cao cả và cái thấp hèn mà còn là hiện thực số phận con người cụ thể trong và sau chiến tranh. Khai thác đời sống bên trong của con người Trong truyện ngắn sau 1975 viết về chiến tranh, nhà văn không chỉ phản ánh hiện thực, con người thực với những điều hiện hữu, dễ nắm bắt, định danh mà còn khai thác thế giới vô thức giấc mơ, đan cài vào hiện thực là thế giới của những điều kỳ ảo và tâm linh để kiến tạo những ngả đường khác nhau đến với đề tài này. Chiến tranh không chỉ giản đơn là dòng hồi ức hay khoảnh khắc khó quên nào đó mà là những câu chuyện trong thế giới nhiều chiều, khó đoán biết. Nhiều truyện ngắn thấp thoáng thế giới ảo như Mười ba bến nước Sương Nguyệt Minh, Họ đã trở thành đàn ông Phạm Ngọc Tiến, Tiếng vạc sành Phạm Trung Khâu... Truyện ngắn chiến tranh khai thác con người với bản năng sống, trạng thái vô thức và tâm linh . Có thể thấy tinh thần đó trong nhiều truyện Giấc mơ kí ức Phan Đức Nam, Rửa tay gác kiếm Bảo Ninh, Bến đàn bà Nguyễn Mạnh Hùng, Những giấc mơ có thực Vũ Thị Hồng... Với đề tài chiến tranh, nhiều nhà văn hướng đến thế giới tâm linh để biểu đạt con người toàn diện hơn. Có thể nhận thấy điều đó trong nhiều truyện ngắn như Chuyến xe đêm Ma Văn Kháng, Tiếng chuông chiều Lê Hoài Lương, Bến trần gian Lưu Sơn Minh... Tuy nhiên, đó không phải là con đường duy nhất để khai thác đề tài chiến tranh. Việc miêu tả thế giới với những điều kỳ ảo, vô thức, tâm linh cũng cần đến một 11 nhãn quan tỉnh táo, chừng mực để tránh sa đà, dẫn tác phẩm tới “ly kỳ rùng rợn” hoặc cổ vũ mê tín dị đoan. Tiểu kết Từ sau giải phóng, truyện ngắn chiến tranh đã có sự bứt phá, thay đổi để tìm đến những hướng tiếp cận mới. Sự thay đổi hệ hình tư duy từ sử thi sang tiểu thuyết là bước ngoặt chi phối đời sống văn chương nói chung và truyện ngắn chiến tranh nói riêng. Từ đó thay đổi phương hướng sáng tạo, xây dựng nhân vật và tổ chức các thành tố của truyện. Chính vì vậy, trong hai thời kỳ lịch sử khác nhau, truyện ngắn đề tài chiến tranh mang diện mạo riêng. Điều này phản ánh tâm thức sáng tạo và tiếp nhận trong bối cảnh hiện thực cụ thể, phù hợp với lôgic vận động của đời sống văn học. Nhà văn đương đại đã chủ động tìm những ngả đường khác nhau mở rộng đường biên phản ánh hiện thực. Đề tài chiến tranh khi nhìn từ thời bình không còn giới hạn trong phạm vi hẹp cả về tư tưởng và trường phản ánh. Vì vậy, từ sau 1986, đặc biệt là những năm 90, truyện ngắn chiến tranh “nở rộ” với sự phong phú về số lượng, đa dạng về phong cách, mới mẻ và khách quan trong xử lý chất liệu chiến tranh. Hiện thực và con người dần hiện lên với bề rộng và chiều sâu, khác với tác phẩm giai đoạn trước. 12 CHƯƠNG 3 CÁC LOẠI HÌNH NHÂN VẬT CHỦ YẾU Loại hình học và loại hình nhân vật văn học Loại hình học Phương pháp tiếp cận vấn đề văn học theo loại hình giúp khu biệt một cách tương đối các hiện tượng trong mối quan hệ với hệ thống, tổng thể, từ đó đưa ra những nhận định theo nhóm có chung đặc điểm. Với vấn đề nhân vật trong truyện ngắn chiến tranh, chúng tôi chọn hướng tiếp cận này như một cách thức để đưa ra những kiến giải về các kiểu nhân vật trong truyện ngắn đương đại về chiến tranh. Cách phân loại nhân vật theo loại hình Tuỳ theo tiêu chí phân loại khác nhau mà có thể tìm thấy những loại nhân vật có sự tương đồng về một mặt nào đó. Trong truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh, thế giới nhân vật rất phong phú đa dạng. Chúng tôi chọn cách phân loại nhân vật dựa trên tiêu chí vai trò của nhân vật trong tác phẩm kết hợp với tiêu chí giới tính, lứa tuổi, mức độ ảnh hưởng của chiến tranh đối với họ. Từ đó luận án tập trung khảo sát một số kiểu loại nhân vật chủ yếu được khắc hoạ đậm nét trong truyện ngắn chiến tranh đương đại. Các loại hình nhân vật tiêu biểu trong truyện ngắn sau 1975 viết về chiến tranh Thế giới nhân vật trong truyện ngắn chiến tranh Trong truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh, viết về chiến tranh khi nó đã kết thúc, có nhiều nhân vật ở mọi lứa tuổi, giới tính là những người của cuộc sống hoà bình, thường ngày. Họ hầu như không tham gia chiến tranh mà xuất hiện trong truyện với tư cách người kể chuyện, những nhân vật phụ làm bối cảnh cho tuyến truyện chính. 13 Trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi chọn và đi sâu khảo sát hai kiểu nhân vật tiểu biểu là người lính và người phụ nữ. Họ thường là nhân vật chính, nhân vật trung tâm trong tác phẩm. Nhân vật người lính Nhân vật đa diện Trong truyện ngắn chiến tranh đương đại, người lính được khắc hoạ đa chiều hơn với cá tính riêng, số phận đời tư, nhiều gương mặt khác nhau bên trong một con người. Đó là Trí Hai người trở lại trung đoàn – Thái Bá Lợi , vị tướng Ai biết mộ liệt sĩ ở đâu? - Văn Chinh, Lâm Truyền thuyết về Quán Tiên - Xuân Thiều... Không còn là sản phẩm của tinh thần lý tưởng hoá cao độ, họ hiện lên với cả sai lầm, thiên kiến cá nhân, khoảnh khắc hèn nhát, bản năng lấn át lí trí... Việc nhà văn “đặc tả” con người ở nhiều chiều kích một cách khách quan dẫn đến sự xuất hiện của nhân vật “lưỡng diện”, “đa trị” trong văn học nói chung và truyện ngắn chiến tranh nói riêng. Nhân vật tự ý thức - Ý thức về hoàn cảnh của mình Người lính được xây dựng trong tâm thế tự ý thức về cảnh ngộ của mình để sống và vượt lên nghịch cảnh sau chiến tranh. Dù gặp những mất mát, thiệt thòi nhưng hình tượng người lính vẫn đem đến cho người đọc sự khâm phục, cảm động khi họ biết vượt qua những bi kịch cá nhân để khẳng định phẩm chất- lí tưởng sống của mình. Đó là Lực Cỏ lau- Nguyễn Minh Châu, “anh” Đêm nguyệt thực- Trung Trung Đỉnh, Thao Miền cỏ hoang- Trần Thanh Hà... Kiểu nhân vật này chiếm số lượng lớn, là sản phẩm tất yếu của sự đổi mới tư duy nghệ thuật. - Ý thức về sai lầm của mình để tự thú, sám hối 14 Tự ý thức còn là trạng thái tinh thần để con người chiêm nghiệm, suy ngẫm lại hành động của mình. Phần lớn họ là người lính bên kia chiến tuyến chúng tôi trình bày ở phần sau. Bên cạnh đó, có cả nhân vật tự thú là người lính cách mạng như “người khách” Hồn cát - Nguyễn Hiê êp, Lực Cỏ lau và hoạ sĩ Bức tranh của Nguyễn Minh Châu. Xây dựng nhân vật này thể hiện sự nhạy cảm của nhà văn về trạng thái tâm lí đầy ám ảnh của con người sau chiến tranh, dù đó là ai, đứng ở vị trí nào. Nhân vật cô đơn Bên cạnh và đối lập với kiểu nhân vật vượt lên trên nghịch cảnh là những nhân vật không dung hoà được với cuộc sống sau chiến tranh. Mang theo những điều còn mất từ chiến tranh, nhiều người rơi vào trạng thái cô đơn, lạc lõng giữa cộng đồngvà thời cuộc. Đó là tướng Thuấn Tướng về hưu- Nguyễn Huy Thiệp, Châu Bóng ma đói quê hương- Vũ Bão, Mộc Trại “Bảy chú lùn”- Bảo Ninh.. Môtip người lính cô đơn đã trở thành mẫu hình phổ biến trong văn học sau 1975, làm phong phú bức tranh chân dung người lính. Họ là sự phản chiếu đời sống sau chiến tranh. Nhân vật tha hoá Cùng với đổi mới tư duy và nhu cầu “nói thật”, hình tượng con người bị tha hóa đã xuất hiện nhiều trong văn học nói chung và truyện ngắn chiến tranh nói riêng. Bởi chiến tranh không chỉ là nơi khẳng định của những anh hùng mà còn là nơi phân biệt những kẻ hèn nhát, phản bội, nhỏ nhen. Sự biến chất, tha hoá này là vấn đề được khai thác trong cả tiểu thuyết và truyện ngắn như một vấn nạn cần phê phán và cảnh giác. Đó là Sức Anh Sức- Khuất Quang Thụy, Quang Cơn giông-Nguyễn Minh Châu, Lê Mãnh Nanh sấu- Sương Nguyệt Minh... 15 Người anh hùng, người lính dưới góc nhìn của nhà văn trở nên chân thực, sinh động hơn, bởi nó gần với đặc tính cố hữu của con người, không phải là một chiều thánh thiện. Nhân vật người lính bên kia chiến tuyến Cùng với sự thay đổi quan niệm về đề tài chiến tranh, về con người, trong văn học đã có cái nhìn khách quan hơn dành cho những người phía “đối phương”. Họ cũng chỉ là công cụ của kẻ xâm lược trong cuộc chiến, có thể bị hủy diệt bất cứ lúc nào vì toan tính của nhà cầm quyền, nhiều người bị xô đẩy vào cuộc chiến và rơi vào bi kịch. Đó là Phúc Thời tiết của ký ức- Bảo Ninh, John Smith Chú lùn thứ bảy- Lưu Sơn Minh, Huỳnh và Phấn Đất ấm- Đỗ Văn Nhâm...Nhân vật người lính “bên kia” còn được phác hoạ với vẻ đẹp nhân bản. Dù phải làm nhiệm vụ trong hàng ngũ địch nhưng họ cũng có cảm xúc, tình cảm, lòng trắc ẩn... như mọi con người bình thường. Đó là Benla Cây số 42- Dũng Hà, Xơn Ông Ba Rạch Đùng- Dương Đức Khánh... Hệ thống nhân vật này phản chiếu tư duy “nhận thức lại lịch sử” một cách khách quan, bao dung, nhân văn khi tiếp cận đề tài chiến tranh. Vì vậy, họ đã “điền vào” vào khoảng trống mà giai đoạn trước truyện ngắn còn để ngỏ. Nhân vật người phụ nữ Nhân vật phụ nữ thuỷ chung chờ đợi Môtip nhân vật phụ nữ thuỷ chung chờ đợi xuất hiện khá nhiều trong truyện ngắn chiến tranh từ sau 1975. Điểm chung của họ là chờ đợi thời gian quá dài, thậm chí hơn nửa đời người, họ vẫn luôn giữ mối chung tình với người đi xa dù có thể còn chưa một lời thề nguyền hẹn ước. Đó là Ân và Mật trong Hai người đàn bà xóm trại Nguyễn Quang Thiều, cô gái ở làng chiến khu Giếng trong – Lê Tuấn Hiển, Hai Mật Trên mái nhà người phụ nữ - Dạ Ngân.. Họ tạo thành hệ thống nhân vật “ vọng phu” nhiều dáng vẻ, điển hình 16 cho nhân cách, phẩm chất, cách ứng phó với cuộc sống sau chiến tranh của không ít phụ nữ Việt Nam. Nhân vật phụ nữ với bi kịch chiến tranh Truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh tiếp cận con người ở số phận cá nhân, người phụ nữ mang bi kịch mất con, trở thành người đàn bà goá bụa hoặc chịu thương tật di chứng chiến tranh,không được làm mẹ... Đó là người bà Nắng chiều- Thụy Anh, bà cụ Lăng Bến trần gian- Lưu Sơn Minh , mẹ của tôi Chuyện xưa kết đi, được chưa?- Bảo Ninh. Họ được tô đậm ở đức tính hi sinh, tình cảm sâu nặng, nghị lực kiên cường và cả sự yếu đuối vốn dĩ của giới nữ. Kiểu nhân vật này gắn với cảm hứng bi kịch, tinh thần dân chủ, nhìn thẳng vào sự thật, truyện ngắn tiếp cận con người cả ở góc độ mất mát, bất hạnh trong cuộc sống do tác động của chiến tranh. Tuổi trẻ, nhan sắc, sức sống đã hao mòn bởi thời gian và chiến tranh cùng với nếp sống tình cảm, sự chi phối của dư luận cộng đồng khiến họ gặp nhiều trắc trở tình duyên và nhiều người thậm chí sống đơn độc phần đời còn lại. Con người mang theo khuyết thiếu, vết thương tâm hồn, tình cảm là một vấn đề lớn sau chiến tranh. Nhân vật phụ nữ tha hoá Trong cách tiếp cận hiện thực và con người đa diện, người phụ nữ còn được khắc hoạ khi bị chiến tranh kéo dài đẩy vào tình cảnh éo le, trở thành người bội bạc, chung chạ với nhiều người. Kiểu nhân vật này không có trong văn học giai đoạn trước. Tuy nhiên, cái nhìn trong truyện ngắn thời kỳ này với họ thường là bao dung bởi họ cũng là nạn nhân của chiến tranh, nhiều khi do hoàn cảnh, họ cũng có những khát khao rất đỗi thường tình của con người. Đó là nhân vật vợ Quang Rửa tay gác kiếm- Bảo Ninh, Diệu Nương Gió dại- Bảo Ninh, Diễm Thuý Đỉnh khói- Nguyễn Thị Kim Hòa, Thoải Thím Thoải- Hạnh Lê... 17 Soi chiếu qua thân phận người phụ nữ, truyện ngắn sau 1975 hướng đến tận những góc khuất thầm kín, khát vọng bản năng, những vấp ngã đời thường. Bên cạnh đó, họ vẫn toát lên đặc trưng nếp nghĩ, phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Tiểu kết Nhân vật trong truyện ngắn chiến tranh đương đại được thêm vào những chân dung, kiểu loại gắn với cái nhìn từ hoà bình. Nhân vật người lính thời kỳ này đã được tập trung thể hiện với tinh thần khách quan, nhân bản. Viết về sự đa dạng trong tính cách, những chấn thương, bi kịch là kết quả của lối tư duy nghệ thuật mới. Điều đó không có nghĩa là phủ nhận kiểu nhân vật người lính anh hùng của giai đoạn trước mà là sự bổ sung, làm đầy đủ hơn loại nhân vật này. Bên cạnh đó, nhân vật phụ nữ là đối tượng được đặc biệt quan tâm trong văn học nói chung và truyện ngắn chiến tranh nói riêng. Nhìn từ hoà bình, chân dung họ hiện lên với những tổn thương đầy khắc khoải và cả những nhược điểm mang tính bảo thủ của người phụ nữ trong định kiến xã hội Việt Nam. Họ đáng được trân trọng, cảm thông bởi chiến tranh đi qua để lại những người phụ nữ với bi kịch lớn nhất là không có một gia đình trọn vẹn. 18 CHƯƠNG 4 NHỮNG PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT ĐẶC SẮC Tổ chức cốt truyện Khái niệm cốt truyện và vai trò của cốt truyện trong truyện ngắn Một số loại hình cốt truyện tiêu biểu Cốt truyện sự kiện - hành động Loại cốt truyện này chú trọng yếu tố “có chuyện”,biến cố, sự kiện, hành động của nhân vật phát triển tạo nên sự vận động của cốt truyện. Tuy nhiên, trong truyện ngắn chiến tranh đương đại, dù truyện triển khai trên sự kiện, hành động là chủ yếu nhưng vẫn đan xen trong đó những chi tiết, tình tiết mới lạ, bất ngờ, biến cố liên tục tạo độ căng cho truyện, trình tự các sự kiện có thể bị đảo lộn chứ không nhất thiết trình bày theo trật tự trước sau như trong truyện truyền thống. Đồng thời, nhà văn sử dụng các yếu tố kỳ ảo, giấc mơ, tâm linh đan xen, kiểu truyện “giả thể loại” để biểu hiện cảm nhận của con người hiện đại về đời sống trong và sau chiến tranh. Nhiều truyện có kiểu cốt truyện này như Kẻ sát nhân lương thiệnLại Văn Long Còn, Mười ba bến nước Sương Nguyệt Minh, Hai mươi năm sau Hồ Phương. Cốt truyện tâm lý Sau năm 1975, kiểu cốt truyện này chiếm tỉ lệ lớn trong truyện ngắn, hướng đến thế giới hiện thực khó định hình và nắm bắt trong tâm hồn con người. Sự kiện được nhắc đến trong truyện không nhiều nhưng từ những chiếc “mắc treo” ấy, tác giả đã làm một hành trình xâm nhập, giãi bày những trạng huống cảm xúc diễn ra trong tâm hồn nhân vật trước hoàn cảnh, khám phá con người ở chiều sâu vô thức 19 và tâm linh trong và sau chiến tranh. Đây là kiểu cốt truyện của Bức chân dung của người đàn bà lạ Chu Lai, Dòng sông trinh nữ Sương Nguyệt Minh, Mỗi tháng có một rằm Lê Hoài Lương... Tiếp thu kiểu cốt truyện trữ tình, nhà văn đương đại vận dụng một cách nhuần nhuyễn và tinh tế trong cái nhìn hướng về số phận cá nhân con người sau chiến tranh. Cốt truyện dòng ý thức là một bước phát triển của cốt truyện tâm lý. Trong truyện ngắn chiến tranh đương đại, loại cốt truyện này chưa đạt đến mức “điển hình” nhưng đã xuất hiện một số tác giả sử dụng như một phương tiện tìm kiếm những nhận thức mới mẻ, sâu sắc về thế giới bên trong của con người. Có thể gặp kiểu cốt truyện này trong Sám hối Phùng Văn Khai, Bến đàn bà Nguyễn Mạnh Hùng, Hoài vọng Văn Xương... Xu hướng tự do hoá cốt truyện Trong văn xuôi đương đại, người ta có thể nói đến sự “lỏng lẻo”, “thu nhỏ” cốt truyện, nhà văn không tuân theo nguyên tắc truyền thống để xây dựng cốt truyện. Một loại cốt truyện nữa tuy xuất hiện không nhiều nhưng cũng là thể nghiệm mới mẻ của nhà văn khi viết về chiến tranh, đó là cốt truyện mang yếu tố hậu hiện đại Chú lùn thứ bảy, Bến trần gian, Âm thanh của kí ức. Quan niệm mới trong văn học đương đại hướng đến một “hiện thực không hoàn kết”, không thể biết trước. Vì vậy, truyện ngắn chiến tranh có xu hướng chuyển đổi từ cách kết thúc đóng sang kết thúc mở và không có hậu, tạo ra sự bất ngờ, để lại nhiều dư âm, gợi mở. Việc tổ chức truyện ngắn với cốt truyện, đoạn kết một cách sáng tạo, độc đáo đem lại nhiều cách cảm nhận về đề tài chiến tranh, phù hợp với cảm thức của đời sống hiện đại. Nghệ thuật tạo dựng tình huống truyện Vai trò của tình huống trong truyện ngắn 20 ... BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN NGUYỄN THỊ BÍCH NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU, NGUYỄN KHẢI, MA VĂN KHÁNG LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN - 2014 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN NGUYỄN THỊ BÍCH NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU, NGUYỄN KHẢI, MA VĂN KHÁNG Chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số 62. 22. 01. 21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC 1. PGS. TS. Nguyễn Thị Bích Thu 2. PGS. TS. Đào Thủy Nguyên THÁI NGUYÊN - 2014 i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực và nội dung này chưa từng được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào trước đó. Thái Nguyên, tháng 06 năm 2014 Tác giả luận án Nguyễn Thị Bích ii MỤC LỤC Lời cam đoan ................................................................................................................ i Mục lục ........................................................................................................................ii Danh mục chữ viết tắt ................................................................................................ iv MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................................... 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 4 4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 5 5. Đóng góp mới của luận án ...................................................................................... 6 6. Cấu trúc của luận án ................................................................................................ 6 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ................................... 7 Khái lược tình hình nghiên cứu lí thuyết tự sự .................................................... 7 Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ............................................................................................................ 10 Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng .......................................... 18 Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu ............................................................................................ 18 Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Khải .............................................................................................. 21 Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975 của Ma Văn Kháng.................................................................................................... 24 CHƢƠNG 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TỰ SỰ HỌC. KHÁI LƢỢC VỀ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 ....................... 28 Một số vấn đề cơ bản của tự sự học ................................................................... 28 Người kể chuyện ............................................................................................. 28 Điểm nhìn nghệ thuật ...................................................................................... 32 Giọng điệu trần thuật ....................................................................................... 36 Khái lược về truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ................................................... 40 Quá trình vận động của truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975 đến nay ............. 40 iii Đổi mới tư duy nghệ thuật .............................................................................. 43 Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng trong dòng chảy của truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ................................................................................ 48 CHƢƠNG 3 NGÔI KỂ VÀ ĐIỂM NHÌN TRONG TRUYỆN NGẮN SAU 1975 CỦA NGUYỄN MINH CHÂU, NGUYỄN KHẢI, MA VĂN KHÁNG .... 56 Truyện ngắn kể theo ngôi thứ ba của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng .......................................................................................................... 56 Người kể chuyện ẩn mình kể theo điểm nhìn bên ngoài................................. 56 Người kể chuyện ẩn mình kể theo điểm nhìn bên trong ................................. 63 Người kể chuyện ẩn mình dịch chuyển điểm nhìn ......................................... 69 Truyện ngắn kể theo ngôi thứ nhất của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng .......................................................................................................... 80 Người kể chuyện xưng “tôi” duy nhất kể theo điểm nhìn đơn tuyến ............. 80 Nhiều người kể chuyện xưng “tôi” kể theo điểm nhìn đa tuyến ..................... 89 CHƢƠNG 4 GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN SAU 1975 CỦA NGUYỄN MINH CHÂU, NGUYỄN KHẢI, MA VĂN KHÁNG........ 101 Giọng điệu khẳng định, ngợi ca ....................................................................... 101 Giọng điệu trào lộng, châm biếm ..................................................................... 113 Giọng điệu xót xa, thương cảm ........................................................................ 120 Giọng điệu trầm tư, triết lí................................................................................ 130 Sự kết hợp, đan xen nhiều giọng điệu .............................................................. 139 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ..................................................................................................... 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 152 Phụ lục .................................................................................................................... 167 iv DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CTNT Cốt truyện nghệ thuật ĐNBN Điểm nhìn bên ngoài ĐNBT Điểm nhìn bên trong ĐNĐaT Điểm nhìn đa tuyến ĐNĐT Điểm nhìn đơn tuyến ĐNPH Điểm nhìn phức hợp ĐNNT Điểm nhìn nghệ thuật NKC Người kể chuyện NT1 Ngôi thứ nhất NT2 Ngôi thứ hai NT3 Ngôi thứ ba 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Roland Barthes từng nói “Đã có bản thân lịch sử loài người, thì đã có tự sự” câu nói quen thuộc ở phương Tây “History is astory / L’Hi storie est unrécit” [165, tr. 12]. Tự sự gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của lịch sử loài người nhưng tự sự học Narratology - một bộ môn nghiên cứu đặc thù của lí luận văn học, lấy nghệ thuật tự sự làm đối tượng nghiên cứu thì phải đến thế kỉ XX mới được các nhà nghiên cứu tìm hiểu và trở thành một lĩnh vực học thuật được quan tâm. Những năm 60 của thế kỉ XX, các nhà lí luận Pháp đã đề cập về tự sự học và giải quyết các vấn đề liên quan đến chúng. Sau đó là các nhà nghiên cứu của Mĩ, Anh, Trung Quốc... Ở Việt Nam, tự sự học nhanh chóng trở thành lĩnh vực thu hút các nhà nghiên cứu. Nhiều công trình đã lấy lí thuyết tự sự làm cơ sở để khám phá cấu trúc văn bản truyện kể. Như vậy, tự sự học là “bộ phận không thể thiếu của hành trang nghiên cứu văn học hôm nay, và nói theo ngôn ngữ của Thomas Kuhn, thì đó là một bộ phận cấu thành của hệ hình paradigme lí luận hiện đại” [165, tr. 11]. Hơn nữa, tự sự học có thể mở rộng phạm vi nghiên cứu. Nó không đơn thuần là nghiên cứu các thể loại tự sự văn học mà còn nghiên cứu những lĩnh vực phi văn học như điện ảnh, nghệ thuật thị giác… Mieke Bal cho rằng, tất cả các khách thể văn hoá bộ luật, tranh ảnh, tư liệu lịch sử… đều ít nhiều có liên quan đến tự sự. Trần Đình Sử đã khẳng định tự sự học là “một bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng” [165, tr. 10]. Vì vậy, tự sự là một thái độ văn hoá và nghiên cứu tự sự cũng là nghiên cứu văn hoá. Lí thuyết tự sự nghiên cứu nhiều phương diện phong phú và đa dạng liên quan đến nghệ thuật trần thuật loại hình trần thuật, cốt truyện, nhân vật, người kể chuyện, ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu... với nhiều quan điểm khác nhau. Vận dụng lí thuyết tự sự để nghiên cứu văn học đòi hỏi người nghiên cứu phải “nhìn” từ góc độ thi pháp. Luận án của chúng tôi vận dụng lí thuyết về ngôi kể, điểm nhìn và giọng điệu trần thuật trong cấu trúc văn bản truyện kể để nghiên cứu nghệ thuật tự 2 sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng. Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Đất nước trở lại quỹ đạo thời bình, xã hội trong cơn chuyển mình lớn và đối mặt với biết bao những vấn đề riêng - chung cần giải quyết. Các nhà văn Việt Nam thoát ra khỏi ánh hào quang của những hình mẫu kì diệu và lí tưởng để trở về nhịp điệu cuộc sống đời thường với tất cả những biểu hiện đa dạng, phức tạp của nó. Sự đổi mới trong quan niệm về hiện thực và con người đã “mở rộng biên độ” của văn học. Văn học tiếp cận đời sống một cách biện chứng. Người viết cũng có thể đưa ra nhiều quan điểm khác nhau, tính dân chủ được thể hiện rất rõ. Nhà văn không có quyền áp đặt người đọc theo một tư tưởng có sẵn. Độc giả cũng có quyền lựa chọn tác giả phù hợp với thị hiếu của riêng mình. Tác giả - nhân vật và người đọc được đặt trong mối quan hệ đa chiều để tranh biện và đi tìm chân lí. Người viết thường không ngại “xé rào” bước ra trò chuyện trực tiếp với bạn đọc. Các điểm nhìn trần thuật được gia tăng và gắn với nó là sự phong phú về giọng điệu trần thuật. Điều này thể hiện khá rõ trong truyện ngắn. Truyện ngắn đã chứng tỏ là thể loại năng động, có khả năng nắm bắt vấn đề một cách nhanh nhạy, kịp thời mà vẫn chuyển tải được những vấn đề quan trọng của đời sống đương thời. Thể loại này mang trong nó những dấu hiệu của sự vận động và biến đổi với nhiều khuynh hướng khác nhau truyện ngắn viết theo lối truyền thống và tuân thủ những đặc trưng vốn có của thể loại; truyện ngắn cách tân trên nền truyền thống; truyện ngắn cách tân theo hướng hiện đại. Chúng tôi đi sâu nghiên cứu truyện ngắn của ba tác giả Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng những nhà văn sáng tác theo khuynh hướng cách tân trên nền truyền thống từ góc nhìn tự sự để thấy được sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật và sự vận động của cấu trúc thể loại trong bối cảnh mới. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải và Ma Văn Kháng là những cây bút có “thương hiệu”. Họ đã góp phần làm nên diện mạo của văn học Việt Nam trong thời kì mới. Nguyễn Minh Châu được coi là một 3 hiện tượng của văn học Việt Nam ở nửa sau thế kỉ XX. Với quan niệm “nhà văn phải đứng hai chân giữa mặt đất đầy hiểm họa, giữa thập loại chúng sinh”, Nguyễn Minh Châu đã khắc khoải về nhân sinh để đi tìm những “hạt ngọc” cho đời. Là một nhà văn suốt đời khao khát đi tìm cái đẹp và sự chân thật của cuộc sống, Nguyễn Minh Châu đã cống hiến hết mình cho nghệ thuật. Ông có một vị trí đặc biệt quan trọng - người “tiền trạm đổi mới” Phong Lê, “người mở đường đầy tài hoa và tinh anh” Nguyên Ngọc trong nền văn học đương đại Việt Nam. Còn Nguyễn Khải lại được đánh giá là một trong số ít người viết mà đời người, đời văn có mối liên quan chặt chẽ. Suốt nửa thế kỉ lao động sáng tạo, ngòi bút của ông đã gắn bó với lịch sử dân tộc. Bằng cái nhìn đa chiều, đa diện, Nguyễn Khải thể hiện trong sáng tác của mình nhãn quan tỉnh táo trước hiện thực đời sống. “Muốn hiểu con người thời đại với cái hay, cái dở của họ, nhất là muốn hiểu cách nghĩ của họ, phải đọc Nguyễn Khải” [20, tr. 61]. Bên cạnh Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng là cây bút chuyên nghiệp đầy bản lĩnh và tài năng. Con người trước lăng kính tâm hồn nhà văn không chỉ là đối tượng ngợi ca mà còn là tiêu điểm để “đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn” Lã Nguyên. Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng là những đại biểu tinh anh của phong trào đổi mới văn học sau 1975. Họ là những cây bút trưởng thành trong chiến tranh và trở về từ chiến tranh nhưng trong bối cảnh đổi mới, họ vẫn là những tác giả có nhiều bạn đọc. Cả ba nhà văn đều là những tấm gương lao động sáng tạo và được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh - giải thưởng cao quý về văn học nghệ thuật. Với những lí do như vậy, chúng tôi đi sâu nghiên cứu đề tài “Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng”. Ở luận án này, chúng tôi tiếp cận truyện ngắn của ba tác giả tiêu biểu thuộc thế hệ “3X” Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, Nguyễn Khải sinh năm 1930 và Ma Văn Kháng sinh năm 1936 có cùng một hành trình, cùng một khởi điểm, cùng chung một mô hình sáng tác của cùng một thế hệ nhà văn mở đầu cho văn học đổi mới và đều viết theo lối cách tân trên nền truyền thống từ góc nhìn thi pháp để thấy được sự chuyển động của thể loại truyện ngắn trong bối cảnh mới của đời sống văn học. 4 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu - Làm rõ nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng ở phương diện ngôi kể, điểm nhìn và giọng điệu trần thuật. - Tìm ra những điểm chung của thế hệ, điểm riêng trong phong cách của từng tác giả và khẳng định đóng góp của ba nhà văn trong sự vận động, đổi mới thể loại truyện ngắn Việt Nam sau 1975. Nhiệm vụ nghiên cứu - Vận dụng lí thuyết tự sự học hiện đại để tìm hiểu và phân tích truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng nhằm làm nổi bật giá trị nghệ thuật và nội dung tư tưởng của các tác phẩm, thấy được điểm chung, điểm riêng của ba nhà văn trong dòng chảy của truyện ngắn Việt Nam sau 1975. - Tìm hiểu truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng trong thế đối sánh với truyện ngắn Việt Nam sau 1975 để chỉ ra những nét riêng biệt, những thành công và giới hạn của thế hệ nhà văn trưởng thành trong chiến tranh, thấy được đặc điểm truyện ngắn Việt Nam sau 1975 từ góc nhìn tự sự. - Thông qua việc tìm hiểu sự đổi mới mô hình tự sự của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, chúng tôi thêm một lần nữa khẳng định diện mạo tinh thần, vai trò, vị trí của họ trong sự vận động của thể loại truyện ngắn Việt Nam sau 1975 nói riêng và trong nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là nghệ thuật tự sự trên các bình diện cơ bản như ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi vấn đề nghiên cứu Nghệ thuật tự sự bao gồm nhiều phương diện. Ở luận án này, chúng tôi tập trung nghiên cứu vấn đề ngôi kể, điểm nhìn và giọng điệu trần thuật. Đó là những yếu tố nổi bật tạo nên phong cách nghệ thuật của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng. 5 - Phạm vi tư liệu + Đề tài chủ yếu khảo sát toàn bộ truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng nhưng tập trung vào những sáng tác sau 1975. Đặc biệt, chúng tôi chú ý những tác phẩm trong tuyển tập truyện ngắn của ba nhà văn Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu 2006 của Nhà xuất bản Văn học; Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải 2007 của Nhà xuất bản Hội Nhà văn; Truyện ngắn chọn lọc Ma Văn Kháng 2002 của Nhà xuất bản Hội Nhà văn. + Một số truyện ngắn tiêu biểu của các nhà văn cùng thế hệ và khác thế hệ các nhà văn “6X”, “7X”, “8X”, “9X” để so sánh. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong luận án này, người viết chủ yếu sử dụng các phương pháp sau Phương pháp tiếp cận tự sự học Vận dụng lí thuyết tự sự để phân tích, lí giải những cách tân trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng. Phương pháp thống kê Phương pháp này được áp dụng trong quá trình khảo sát văn liệu để từ đó có thể đưa ra những kết luận khoa học về các phương diện của nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của ba nhà văn mà luận án quan tâm. Phương pháp hệ thống Phương pháp này giúp chúng tôi nhìn truyện ngắn của ba nhà văn như một hệ thống và đặt nó trong hệ thống lớn hơn là tiến trình văn học Việt Nam hiện đại. Đồng thời có thể đưa ra đánh giá về những đóng góp và giới hạn trong nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng một cách khách quan và toàn diện. Phương pháp loại hình, phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại Nhằm tìm ra những đặc điểm tương đồng loại hình về phương diện nghệ thuật trần thuật, chỉ ra các kiểu, dạng NKC, phương thức trần thuật và giọng điệu trần thuật… từ góc nhìn thể loại. Phương pháp so sánh Để có cái nhìn sâu hơn về đối tượng nghiên cứu, chúng tôi so sánh truyện ngắn của ba nhà văn với nhau và với truyện ngắn của các nhà văn khác, đồng thời đối 6 chiếu truyện ngắn của ba nhà văn ở hai giai đoạn sáng tác trước và sau 1975. Từ đó, chỉ ra những vận động về nghệ thuật trần thuật. Phương pháp tổng hợp Phương pháp này giúp chúng tôi đưa ra những khái quát trên cơ sở phân tích ngữ liệu cụ thể. 5. Đóng góp mới của luận án - Luận án vận dụng những thành tựu nghiên cứu tự sự học trên thế giới và ở Việt Nam để mô tả, phân tích sâu một số phương diện cơ bản của nghệ thuật tự sự như ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng nhằm làm nổi bật giá trị nội dung, nghệ thuật của các tác phẩm. Từ đó, người viết xác định điểm tương đồng và khác biệt trong nghệ thuật tự sự và trong phong cách nghệ thuật của ba tác giả. - Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 của nhóm tác giả đã có vị trí và đóng góp to lớn trong nền văn học Việt Nam hiện - đương đại. Trên cơ sở nghiên cứu đó, người viết khẳng định sự đổi mới và những thành công về tổ chức tự sự trong truyện ngắn sau 1975 của ba nhà văn “gạo cội” - tiêu biểu cho thế hệ những nhà văn mở đường của nền văn học Việt Nam từ sau 1975. - Từ thực tiễn sáng tác của ba nhà văn, từ sự đối chiếu, so sánh truyện ngắn của họ ở hai giai đoạn trước - sau 1975 và so sánh với truyện ngắn của các nhà văn khác, luận án chỉ ra sự vận động và đổi mới của truyện ngắn Việt Nam sau 1975. - Luận án góp một tài liệu phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, học tập về truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở các trường đại học, cao đẳng, trung học. 6. Cấu trúc của luận án Chương 1 Tổng quan về vấn đề nghiên cứu Chương 2 Một số vấn đề cơ bản của tự sự học. Khái lược về truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Chương 3 Ngôi kể và điểm nhìn trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng Chương 4 Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng 7 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Khái lƣợc tình hình nghiên cứu lí thuyết tự sự Tự sự học là “một nhánh của thi pháp học hiện đại” [165, tr. 11]. Chủ nghĩa hình thức Nga với những tên tuổi V. Shklovski 1893 - 1984, B. Eikhenbaum 1886 - 1959, B. Tomachevski 1890 - 1957… đã đặt nền móng cho những cơ sở ban đầu của lí thuyết tự sự. Họ đề cập đến nhiều phương diện cơ bản của cấu trúc tự sự ở phương diện lí thuyết như kết cấu tác phẩm, cốt truyện, nhân vật hay nghệ thuật tổ chức thời gian… B. Tomachevski vốn là một nhà phê bình thơ nhưng với tiểu luận Hệ chủ đề, ông đã trở thành người đầu tiên nghiên cứu thủ pháp của cốt truyện. Ông phân biệt khái niệm chuyện kể fabula, fable và cốt truyện sujet “tuyến hành động liên quan đến chuyện kể, còn tuyến trần thuật thì liên quan đến cốt truyện ” dẫn theo [165, tr. 30]. Ông phân biệt “thời gian của chuyện kể” và “thời gian trần thuật”, đồng thời trình bày nhiều thủ pháp như trì hoãn, bình luận ngoại đề, che giấu bí mật, đảo lộn thời gian… V. Shklovski qua các tiểu luận Nghệ thuật nhƣ là thủ pháp, Cấu trúc của truyện ngắn và tiểu thuyết… cho rằng “Nhiều tác phẩm tự sự là một tổ hợp các kết cấu vòng tròn và kết cấu bậc thang, trong đó các tình tiết được sắp xếp thành những tầng nấc kế tiếp nhau” dẫn theo [165, tr. 31]. Ông còn nói đến “thủ pháp đóng khung” và “thủ pháp xâu chuỗi” dẫn theo [165, tr. 32] trong văn tự sự. B. Eikhenbaum trong tiểu luận Về lí thuyết văn xuôi đã cho rằng “Truyện ngắn là hình thức sơ yếu của văn xuôi”, “nhà văn thường xây dựng truyện ngắn trên cơ sở một mâu thuẫn, một tan vỡ, một sai lầm hay một tương phản” dẫn theo [165, tr. 34]. Chủ nghĩa hình thức Nga đặt viên gạch đầu tiên cho lí thuyết tự sự học nhưng góp phần hình thành bộ môn tự sự học thì phải kể đến Chủ nghĩa cấu trúc với những tên tuổi như R. Barthes, Tz. Todorov, A. J. Greimas, G. Genette… Chủ nghĩa cấu trúc đi tìm mô hình cho hình thức tự sự. mở đầu với công trình Dẫn luận 8 phân tích tác phẩm tự sự 1968 và S/Z 1970 tác phẩm này đã bắt đầu chuyển sang hậu cấu trúc chủ nghĩa. Todorov là một trong những người đầu tiên đề xuất thuật ngữ tự sự học với chuyên luận Thi pháp văn xuôi. Todorov còn có công trình Ngữ pháp “Câu chuyện mười ngày”… Từ góc độ ngữ pháp, Todorov coi “nhân vật như danh từ, tình tiết là động từ” dẫn theo [165, tr. 14], G. Genette thì tuyên bố “mỗi câu chuyện là sự mở rộng của một câu” dẫn theo [165, tr. 14], R. Barthes cũng tán thành quan điểm đó… Như vậy, mục đích của chủ nghĩa cấu trúc là “nghiên cứu bản chất ngôn ngữ, bản chất ngữ pháp của tự sự” dẫn theo [165, tr. 14]. Tiếp theo phải kể đến các nhà tự sự học hậu cấu trúc chủ nghĩa như M. Bakhtin, Iu. M. Lotman, B. Uspenski… Các tác giả này quan tâm đến các phương thức biểu đạt ý nghĩa khác nhau, lấy văn bản làm cơ sở Jean - Claude Coquet. Hình thức tự sự chính là phương tiện biểu đạt ý nghĩa của tác phẩm. Tổng quan quá trình nghiên cứu của lí thuyết tự sự, nhà lí luận Mĩ Gerald Prince đã chia làm ba nhóm theo ba loại hình như sau Nhóm thứ nhất gồm những nhà tự sự học chịu ảnh hưởng của các nhà hình thức chủ nghĩa Nga như V. Propp, Todorov, Barthes, Remak, Norman Friedman, Northrop Frye, Etienne Souriau… chú ý tới cấu trúc của câu chuyện được kể, bỏ qua hoặc không đi sâu vào đặc trưng biểu đạt của chất liệu; nhóm thứ hai gồm G. Genette, Dolezel, Micke Bal… xem nguồn gốc của tự sự là dùng ngôn ngữ biểu đạt và vai trò của người trần thuật là quan trọng nhất; nhóm thứ ba đại diện là Gerald Prince và Seymour Chatman lại coi trọng phương pháp nghiên cứu tổng thể. Lí thuyết tự sự học hiện đại lần đầu tiên cho người ta thấy sự phức tạp của cấu trúc tự sự với các vấn đề cần phải tìm tòi, suy ngẫm như vấn đề NKC, điểm nhìn, dòng ý thức, không gian, thời gian, giọng điệu nghệ thuật… Lí thuyết tự sự sẽ giúp cho ta nghiên cứu nghệ thuật tự sự của các thể loại nói chung và của từng tác phẩm văn học cụ thể nói riêng, qua đó cho thấy cả truyền thống văn học, văn hoá của mỗi dân tộc. Ở Việt Nam, năm 2001, hội thảo quy mô toàn quốc về tự sự học đã được tổ chức tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Trong bài viết Tự sự học - một bộ môn 9 nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng, Trần Đình Sử đã hệ thống, khái lược những vấn đề tự sự từ chủ nghĩa hình thức Nga, ngôn ngữ học Saussure, Platon, Aritoste, Tz. Tododov, Genette… Qua đó, ông khẳng định vai trò quan trọng của tự sự học. Trong công trình Dẫn luận thi pháp học [167], Trần Đình Sử đã xác định vị trí của thi pháp học trong khoa nghiên cứu văn học, đối tượng phạm trù và phương pháp nghiên cứu thi pháp, ông tập trung đi sâu hệ thống, cắt nghĩa những khái niệm thuộc về trần thuật học như quan niệm nghệ thuật về con người, thời gian - không gian nghệ thuật, tác giả và kiểu tác giả, tính quan niệm và cấu trúc thể loại, cấu trúc của văn bản trần thuật, ngôn từ nghệ thuật… Trần thuật học - Nhập môn lí thuyết trần thuật học của tác giả Manfred Jahn công bố vào ngày 28 - 07 - 2003 [131], đăng tải trên trang web đã xây dựng một hệ thống những khái niệm nền tảng về truyện kể và chỉ ra cách sử dụng chúng khi phân tích tác phẩm. Những định nghĩa này được dựa trên một loạt bài nhập môn cổ điển như cấu trúc của trần thuật, kể chuyện tiêu điểm và tình huống trần thuật, thì, thời và thức trần thuật, nhân vật và diễn ngôn… Cao Kim Lan trong bài viết Lí thuyết về điểm nhìn nghệ thuật của R. Scholes và R. Kellogg [113] đã dựa vào cuốn Bản chất của tự sự The nature of Narrative, Oxford University, tái bản 1968 để giới thiệu về điểm nhìn nghệ thuật và sự chi phối của điểm nhìn trong truyện kể, vấn đề quyền năng của NKC với điểm nhìn của nhân vật, điểm nhìn của NKC và điểm nhìn của người đọc… Lê Phong Tuyết trong bài Tiếp cận Genette qua một vài khái niệm trần thuật [201] đã giới thiệu về Genette và lí thuyết của ông một cách hệ thống với những khái niệm liên quan đến trần thuật. Trong đó, tác giả tập trung làm rõ hai vấn đề mới mẻ với giới nghiên cứu và bạn đọc Việt Nam là tình huống trần thuật và người nghe chuyện. Một trong những công trình có ý nghĩa lớn với việc giới thiệu lí thuyết tự sự vào Việt Nam đó là cuốn Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử [165] do Trần Đình Sử chủ biên. Trong đó, Phan Thu Hiền có bài viết Về lí thuyết tự sự của Northrop Frye [165, tr. 56 - 70]. Tác giả giới thiệu Northrop Frye là đại biểu quan 10 trọng có ảnh hưởng sâu sắc nhất của lí thuyết Phê bình huyền thoại Mythcritic còn gọi là lí thuyết Phê bình nguyên mẫu archetypal critism với quan niệm cho rằng mục tiêu của văn chương là đạt đến sự giới thiệu, sự trình bày cuộc sống. Nguyễn Đức Dân giới thiệu về Greimas trong bài Greimas - Ngƣời xây nền cho trƣờng phái kí hiệu học Pháp [165, tr. 39 - 55] với mô hình vai hành động, cấu trúc cơ sở của nghĩa, mô hình cấu tạo. Tiếp theo, đó là cuốn Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử Tập 1 và tập 2 [166] cũng do Trần Đình Sử chủ biên. Ở đây, chúng tôi quan tâm đến bài viết Vấn đề phân loại góc nhìn trần thuật của Phương Lựu, Ngƣời kể chuyện - nhân vật mang tính chức năng trong tác phẩm tự sự [165, tr. 196 - 208] của Nguyễn Thị Hải Phương, Bàn về một vài thuật ngữ thông dụng trong truyện kể của Đặng Anh Đào [165, tr. 169 - 178]. Qua những bài viết này, các tác giả đã góp phần làm rõ các khái niệm tự sự học như NKC, điểm nhìn, giọng điệu, ngôi phát ngôn… Như vậy, lí thuyết tự sự luôn là vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm. Nó có vai trò quan trọng và cần thiết trong việc tiếp cận tác phẩm văn học, đặc biệt là tác phẩm văn xuôi. Ở Việt Nam, ngoài những tác phẩm dịch thuật, ít có công trình nghiên cứu sâu về nghệ thuật tự sự từ phương diện lí thuyết. Giới nghiên cứu tự sự tập trung tìm hiểu, nghiên cứu về các phương diện của tự sự như thời gian và không gian trần thuật, cấu trúc của văn bản trần thuật, ngôn ngữ trần thuật, tình huống trần thuật, điểm nhìn, giọng điệu, ngôi phát ngôn… Nói tóm lại, tất cả các thành phần của nghệ thuật tự sự đều được các học giả nghiên cứu và làm rõ qua các tác phẩm văn học. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Trong quá trình khảo sát tư liệu, chúng tôi được tiếp xúc nhiều với bài viết và công trình lí luận có quy mô khác nhau. Trước thành tựu của công cuộc đổi mới văn học dân tộc sau 1975, đặc biệt là thể loại truyện ngắn, các nhà nghiên cứu phê bình đã tập trung bút lực nhằm giúp bạn đọc tiếp cận và thẩm định những cách tân mới mẻ trong “bước ngoặt” của dòng chảy văn học hiện đại Việt Nam. 11 Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 đã được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình quan tâm, đặc biệt là nghiên cứu từ góc nhìn tự sự, một vấn đề lí luận mới mẻ và còn nhiều “lời ngỏ”. Cuốn 50 năm - Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám [153] được chia làm ba phần Đặc điểm, diện mạo, hướng tiếp cận; Văn học và chiến tranh cách mạng; Những vấn đề thi pháp thể loại. Trong đó, chúng tôi chú ý đến bài viết Mấy nhận xét về nhân vật của văn xuôi Việt Nam sau 1975 của Nguyễn Thị Bình [153, tr. 207 - 227]. Sau khi xác định tiêu chí, nguyên tắc xây dựng nhân vật của văn học sau 1975 trong thế đối sánh với văn học trước 1975, tác giả bài viết đã khẳng định nét mới rõ nhất trong việc xây dựng nhân vật là sự thay đổi mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật, giữa nhà văn và bạn đọc. Đó là “mối quan hệ bình đẳng, là xu thế đối thoại dân chủ giữa nhiều ý thức, mỗi nhân vật có thể có một điểm nhìn đời sống độc lập với điểm nhìn của tác giả” [153, tr. 218]. Văn học Việt Nam thế kỉ XX - Những vấn đề lịch sử và lí luận [46] là công trình khoa học trọng điểm của Đại học Quốc Gia Hà Nội do một tập thể Viện sĩ, Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ thuộc Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Viện Văn học, Đại học Sư phạm Hà Nội hợp tác biên soạn. Công trình đã dành hẳn phần ba để nghiên cứu về “Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 2000”. Trong đó, chương VI đề cập đến “Một số vấn đề thi pháp truyện ngắn hiện đại Việt Nam”. Các tác giả cho rằng giai đoạn 1975 - 2000 là “thời của truyện ngắn”, truyện ngắn thực sự khởi sắc, “các nhà văn đã có công tìm tòi nghệ thuật làm cho thể loại “nhỏ” có sức chứa”, “có khả năng khái quát hóa nghệ thuật đời sống theo chiều sâu” [46, tr. 261]. Và sau đó, họ tập trung nghiên cứu vào hai nhà văn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp - những tên tuổi được dư luận quan tâm và có vị trí trên văn đàn. Nguyễn Minh Châu được đánh giá là “một phong cách đa dạng và biến ảo vì thế giọng điệu cũng luân phiên cho phù hợp với đối tượng” với “giọng chủ âm là trữ tình lo âu”, gần cuối đời có hiện tượng pha giọng. Còn Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn “có công tìm tòi làm cho truyện ngắn đa dạng về hình thức”, là một hiện tượng văn học “hai lần lạ”, truyện ngắn của ông “có sức mạnh ở các chi tiết nghệ thuật”. Ta nhận thấy, bàn về vấn đề thi pháp truyện ngắn hiện đại Việt Nam, các tác giả đã 12 bày tỏ quan điểm về tình huống truyện, cốt truyện, các kiểu truyện ngắn hiện đại và nghệ thuật kể chuyện từ góc nhìn tự sự học. Tuy nhiên, những nhận xét vẫn chỉ dừng ở những nhận định khái quát, điểm xuyết mà chưa đi sâu vào nghiên cứu cấu trúc văn bản truyện kể. Văn học Việt Nam sau 1975 - những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy [158] là cuốn sách tập hợp những bài viết của Hội thảo khoa học do khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức. Cuốn sách được tập hợp theo ba phần Những vấn đề chung; Những vấn đề về văn xuôi và Những vấn đề về thơ. Chúng tôi quan tâm đến bài viết Quan niệm về thể tài truyện ngắn trong văn học Việt Nam sau 1975 của Phùng Ngọc Kiếm [158, tr. 192 - 202], Nghiên cứu và dạy học truyện ngắn hiện đại của Nguyễn Thanh Hùng [158, tr. 293 - 299], Một vài khuynh hƣớng vận động của điểm nhìn trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 của Nguyễn Văn Hiếu. Trong đó, bài viết của Nguyễn Văn Hiếu [158, tr. 300 - 306] tìm hiểu về sự vận động của điểm nhìn nghệ thuật trong tiến trình của văn xuôi sau 1975. Bài viết đã chỉ ra những khuynh hướng vận động nổi bật của điểm nhìn như khuynh hướng cá thể hóa, khuynh hướng đối thoại, khuynh hướng gián cách. Người viết khẳng định “Dấu ấn cá tính trong điểm nhìn trần thuật dần trở thành một tiêu chí của giá trị, một mối quan tâm của văn chương. Cá thể hóa là khuynh hướng vận động tất yếu của điểm nhìn, phù hợp với nhu cầu của nhà văn và yêu cầu của thời đại”; “Sức nặng của điểm nhìn mang tính đối thoại, một mặt xác lập các chuẩn mực mới, nhưng mặt khác nó đã làm nảy sinh ở người đọc tâm lí tự vấn trước hiện thực được kể đến”; “Nhà văn là NKC thường di chuyển điểm nhìn theo nhiều chủ thể khác nhau”; “Gián cách đòi hỏi người cầm bút phải tìm cách viết khác, người đọc phải hình thành một thị hiếu khác, phê bình văn học phải hình thành bậc thang giá trị khác” [158, tr. 300 - 305]. Tuy nhiên, những nhận xét này mới chỉ nằm trong khuôn khổ của một bài viết nên sự lí giải chưa thực thấu đáo. Tập hợp tâm huyết của nhiều nhà nghiên cứu phê bình, cuốn Truyện ngắn Việt Nam - Lịch sử, thi pháp, chân dung [47] do Phan Cự Đệ chủ biên đã được xuất bản năm 2007. Cuốn sách dày gần 800 trang nghiên cứu hai vấn đề là Truyện 13 ngắn Việt Nam thời kì trung đại và Truyện ngắn Việt Nam thời kì hiện đại. Các tác giả cũng tập trung làm rõ lịch sử phát triển của các khuynh hướng và loại hình truyện ngắn chỉ ra những nguyên nhân của quá trình đổi mới truyện ngắn từ 1976 - 2006; đặc trưng của thể loại truyện ngắn hiện đại, truyện ngắn trong mối quan hệ với các thể loại khác. Các tác giả đã lí giải về đặc trưng thi pháp của truyện ngắn hiện đại như kết cấu và cốt truyện, khoảnh khắc và tình huống; các kiểu của truyện ngắn hiện đại như truyện ngắn mang tầm khái quát cao, truyện ngắn liên hoàn và các kiểu truyện ngắn khác. Từ những vấn đề lí luận đó, các tác giả đã tiến hành nghiên cứu và định hình phong cách truyện ngắn của các thế hệ nhà văn từ Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao… đến các nhà văn kháng chiến như Anh Đức, Nguyễn Thi, Nguyễn Quang Sáng… và sau 1975 như Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp… Cuốn Tự sự học, những vấn đề lịch sử và lí luận [165] do Trần Đình Sử chủ biên đã tập hợp những bài viết về một số vấn đề cơ bản của lí thuyết tự sự học và những bài viết vận dụng lí thuyết tự sự học vào tìm hiểu văn liệu cụ thể. Chúng tôi đặc biệt chú ý tới bài viết Đổi mới ngôn ngữ và giọng điệu - một thành công đáng chú ý của văn xuôi sau 1975 của Nguyễn Thị Bình [165, tr. 351 - 367]. Tác giả bài viết đề cập đến hai khía cạnh trong sự chuyển động mạnh mẽ của văn xuôi sau 1975 là ngôn ngữ và giọng điệu. Qua khảo sát, tác giả bài viết đã định dạng những phong cách ngôn ngữ mới ngôn ngữ mang nhãn quan hiện thực, đời thường Nguyễn Huy Thiệp, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Tạ Duy Anh…; ngôn ngữ tăng cường tính tốc độ, thông tin và tính triết luận Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài…. Sự đa dạng về giọng điệu cũng là nét mới của văn học sau 1975. Tác giả chỉ ra bên cạnh giọng tự tin, tự hào xuất hiện giọng hoài nghi trong sáng tác của Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Tô Hoài, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp…; giọng chất vấn, đay đả trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng…; giọng từng trải, chiêm nghiệm trong sáng tác của Nguyễn Khải, Lê Lựu, Chu Lai, Phạm Hải Vân, Nguyễn Việt Hà…; giọng giễu nhại trong sáng tác của các nhà văn trẻ… Từ đó, tác giả đưa ra nhận xét khái quát “Mười năm đầu sau khi cuộc chiến tranh chống Mĩ kết thúc, văn xuôi nước ta mang giọng chủ 14 đạo trầm tĩnh, khách quan. Từ khoảng giữa thập kỉ 80, nổi lên giọng phê phán, phân tích xã hội …. Sau đó giọng phê phán trầm xuống …. Giọng điệu văn xuôi dần mang nhiều suy tư khắc khoải, nhiều chiêm nghiệm về thế sự nhân sinh. Từ đầu thập kỉ 90, nó bắt đầu thăng bằng lại, tự điều chỉnh những ồn ào thái quá” [165, tr. 367]. Đó là cái nhìn khá tinh tế và sắc sảo. Tuy nhiên, mọi sự phân tích, lí giải chỉ nằm trong phạm vi của một bài viết. Sự xuất hiện của thi pháp học hiện đại và những thành tựu của nó đối với lĩnh vực nghiên cứu và giảng dạy văn học ở nước ta là sự nỗ lực của nhiều người, trong đó phải kể đến vai trò quan trọng của Trần Đình Sử. Nhân dịp kỉ niệm 70 năm ngày sinh của ông, Nguyễn Đăng Điệp - Nguyễn Văn Tùng đã tuyển chọn và biên soạn công trình Thi pháp học ở Việt Nam [53]. Công trình gồm ba phần Phần I Toàn cảnh thi pháp học bức tranh toàn cảnh thi pháp học từ truyền thống đến hiện đại; các khuynh hướng thi pháp học trên thế giới; Phần II Tuyển chọn những công trình tiêu biểu bằng chứng cụ thể, sinh động nhất về sức sống và tính hiệu quả của thi pháp học trong đời sống nghiên cứu văn học; Phần III Ấn tượng Trần Đình Sử những đánh giá, nhận định về Trần Đình Sử. Trong công trình này, bài viết của Lê Huy Bắc về Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại [53, tr. 335 346] đã nêu ra những vấn đề mà chúng tôi đang quan tâm như khái niệm giọng voice, giọng điệu tone hoặc tone of view và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại. Tác giả đã tập trung vào ba kiểu giọng điệu thể hiện hai trạng thái tâm lí của NKC là giọng điệu dửng dưng và hoài niệm; giọng điệu trung tính người kể chuyện giữ sắc giọng bình thường khi trần thuật các sự kiện, hành động; giọng điệu vô âm sắc thái độ lạnh lùng; giọng điệu cảm xúc bộc lộ cảm xúc, tâm trạng, những chiêm nghiệm sâu xa.... Văn học Việt Nam sau 1975 có vị trí quan trọng trong dòng chảy của văn học dân tộc. Vì thế, những năm gần đây. Nó cũng được dành một vị trí xứng đáng trong văn học nhà trường, cuốn Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại, tập 2 từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 [123] xuất bản đã đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập của đông đảo các nhà giáo, học sinh, sinh viên. Chương X của giáo trình đề cập đến nội dung “Văn xuôi từ sau 1975” đã chỉ ra những đổi mới về tư tưởng và nghệ Đang tải.... xem toàn văn Thông tin tài liệu Ngày đăng 31/03/2015, 1426 . XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN _________________ HOÀNG DĨ ĐÌNH (HUANG YITING NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 TRÊN TƯ LIỆU TRUYỆN NGẮN BA NHÀ VĂN NỮ . NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 TRÊN TƯ LIỆU TRUYỆN NGẮN BA NHÀ VĂN NỮ Chuyên ngành Lý luận ngôn ngữ Mã số 62 22 01 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC . trúc văn bản tự sự qua các truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1995 2 003, Nguyễn Thị Thu Thủy với Luận án Tiến sĩ Ngữ văn về đề tài Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 iểm - Xem thêm -Xem thêm Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Trên tư liệu truyện ngắn ba nhà văn nữ, Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Trên tư liệu truyện ngắn ba nhà văn nữ, , CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT, 1 Tổng quan những thành quả nghiên cứu về Ngôn ngữ trần thuật., 2 Quan niệm về "trần thuật" và "ngôn ngữ trần thuật", 3 Quan niệm về "người trần thuật" và phân loại "người trần thuật", 4 Quan niệm về "điểm nhìn" và phân loại "điểm nhìn", 5 Quan niệm về Thời gian và các yếu tố liên quan, CHƯƠNG 2. NGƯỜI TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CÁC NHÀ VĂN NỮ, 2 Người trần thuật với cấp bậc trần thuật và trong quan hệ với truyện, 3 Người trần thuật với mức độ được nhận biết trong truyện, 4 Người trần thuật trong quan hệ với tác giả tiềm ẩn, 2 Mối quan hệ giữa các yếu tố của điểm nhìn, 3 Mối quan hệ giữa điểm nhìn và nhân xưng, 4 Các phương thức làm thay đổi điểm nhìn, CHƯƠNG 4. THỜI GIAN TRONG TRUYỆN NGẮN CÁC NHÀ VĂN NỮ, 2 Tính chất thời gian “một chiều”, 3 Tính chất thời gian “đa chiều”, 4 Các phương thức biểu hiện thời gian trong văn bản, TÀI LIỆU THAM KHẢO

truyện ngắn việt nam sau 1975