Tinh lich trå na VietcombankV la U. khoån siêu uu dãi Quã 19 dich vu thé wetcornoanK aung xtr me Connect24 däu sõ 686868 tir unuong tnnn Lai suar cann trann dành cho khách hàng Cá nhân ngày31/12/2020 Mð khóa tté Rút tEn tirtia Khóa thé Tãt Phát hành/ Chuyen ddi thé nq Tia kiêm tir Dich vu thé gúi tích Chi tiãt 2. Nêu vai trò của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình đối với công cuộc xây dựng đất nước. Trả lời: Trong công cuộc xây dựng đất nước, Nhà máy Thủy điện Hòa Bình đóng vai trò vô cùng quan trọng: - Chống lũ cho đồng bằng Bắc Bộ. - Cung cấp điện tới mọi miền Tổ quốc cac giai phap marketing nang cao, kha nang canh tranh ,trong dau thau lap dat, may phat dien, cua cong ty, trach nhiem huu han, cat lam,le van huy. cac giai phap nang cao, nang luc canh tranh ,cua cac nhtmcp, tren dia ban tphcm, giai doan 2006 - 2015,phan ngoc tan che do, cong dien cong tho, trong lich su, khan hoang lap ap, o nam ky luc 1 Xem lịch sử máy tính bằng Windows 10 Bước 1: Vào mục Settings (Cài đặt) > Privacy (Bảo mật) > Activity history (Lịch sử hoạt động). Sau đó bạn hãy chọn Manage my Microsoft account activity data (Quản lý thông tin hoạt động tài khoản Microsoft của tôi). Bước 2: Đường dẫn sẽ tự động mở trên trình duyệt web mặc định. Vän hóa, Thê thao và Du lich (sau dây gQi là Cá nhân); các co quan, don vi và Cá nhân có liên quan dên giao dich trên HQ thông Quån lý vän bån và Ðiêu hành tai Sð Vän hóa, Thê thao và Du lich. CHÜONG 11 QUÅN LÝ vÃN BÅN TÜ ÐÊN Ðiêu 3, Nguyên täc và yêu câu quån lý vän bån diên tü' dên 1. Cuộc quyết đấu lịch sử "Điện Biên Phủ trên không" 1972 (Kỳ 3): MỘT NGƯỜI VIỆT Ở NƯỚC NGOÀI "HIẾN KẾ ĐÁNH MÁY BAY B-52" NHƯ THẾ NÀO? 23 Mai Xuân Thưởng, Phường Trần Hưng Đạo, Thành phố Quy Nhơn, Bình Định. Giới thiệu. Lịch phát sóng. Trực tuyến. Truyền hình. Phát thanh. Văn bản. Các Văn bản, Tài liệu Khác. Bài Trình Chiếu Lịch Sử Máy Tính, Bài Trình Chiếu Powerpoint Lịch Sử Máy Tính, Lịch Chiếu Phim Hương Vị Tình Thân, Một Mảnh Vườn Hình Chữ Nhật Có Chiều Rộng Bằng Ba Phần Tư Chiều Dài Và Ngắn Hơn Chiều Dài 8m Tính Di, Bài Trình Chiếu Powerpoint Cách Vay Tiền Trên Momo. Điện toán đám mây là một trong những công nghệ phổ biến và được tin tưởng sử dụng rộng rãi. Nhưng liệu bạn đã biết đến sự ra đời và phát triển của nó trong suốt giai đoạn lịch sử đã qua chưa? Cùng We tìm hiểu chủ đề này thông qua bài viết dưới đây giai đoạn lịch sử của điện toán đám mâySự ra đời của điện toán đám mâyPhát minh của điện toán đám mây Cloud Computing được xuất hiện bắt đầu từ năm 1955 khi John McCarthy, người ban đầu đặt ra thuật ngữ “trí tuệ nhân tạo”, đã đưa một lý thuyết mới về việc chia sẻ thời gian sử dụng máy tính giữa một nhóm người thuyết này được ra đời dựa trên một sự thật vào thời điểm lúc bấy giờ khi thời gian sử dụng máy tính vô cùng quý giá, có khả năng tiêu tốn lên vài triệu đô la để dùng được nó. Là một tài sản cực kỳ đắt tiền, tối đa hóa được thời gian sử dụng máy tính là ưu tiên hàng đầu mà các đối tượng đang vung tiền cho công nghệ hướng McCarthy - người đặt ra lý thuyết về "chia sẻ thời gian sử dụng máy tính".Thậm chí, nhiều công ty quy mô nhỏ cũng không thể chi trả để sử dụng máy tính, đồng thời quá trình chuyển sang loại hình tự động hóa của các công ty lớn cũng gặp khó bối cảnh này, lý thuyết “chia sẻ thời gian” của McCarthy thực sự là một điều cần thiết giúp tận dụng tối đa thời gian sử dụng máy tính cũng như cung cấp thời gian sử dụng máy tính cho các công ty nhỏ không có khả năng mua máy tính cho sự phát triển của công nghệ, ý tưởng về điện toán đám mây cũng dần tiến lên từng bước nhưng không có nhiều sự tiến bộ vượt bật cho đến những năm cuối cùng của những năm giữa những năm 1960, một nhà khoa học máy tính người Mỹ - Licklider đã nảy ra một ý tưởng về một hệ thống máy tính kết nối với nhau. Năm 1969, ý tưởng mang tính cách mạng của Licklider đã giúp Bob Taylor và Larry Roberts phát triển nên ARPANET Advanced Research Projects Agency Network. Licklider đã hỗ trợ phát triển nên được biết là tiền thân của Internet hiện nay và mạng đầu tiên cho phép chia sẻ các nguồn kỹ thuật số giữa các máy tính không ở cùng một vị trí thực tế. Với mạng lưới này, mọi người trên thế giới đều có thể kết nối với nhau và truy cập thông tin từ mọi niệm ảo hóa virtualization đã bắt đầu thay đổi, nó mô tả việc tạo ra một máy tính ảo có thể hoạt động như một máy tính thực, sở hữu đầy đủ hệ thống điều hành chức năng. Việc sử dụng máy tính ảo dần trở nên phổ biến vào những năm 1990, kéo theo sự phát triển của cơ sở hạ tầng điện toán đám mây hiện toán đám mây cuối những năm 1990Trong giai đoạn đầu, điện toán đám mây được sử dụng để thể hiện không gian trống giữa người dùng cuối cùng và nhà cung năm 1997, giáo sư Ramnath Chellapa của Đại học Emory đã đưa ra một định nghĩa về điện toán đám mây “mô hình điện toán mà ở đó các ranh giới của điện toán sẽ được xác định bởi cơ sở lý luận kinh tế, thay vì chỉ giới hạn ở yếu tố kỹ thuật”. Phần mô tả có phần sâu sắc nhưng lại hoàn toàn phù hợp với quá trình tiến hóa của điện toán đám mây giai đoạn đã ứng dụng thành công công nghệ điện toán đám Computing cũng trở nên phổ biến hơn khi các công ty dần hiểu rõ hơn về các dịch vụ và sự hữu ích của nó. Salesforce là minh họa điển hình cho việc ứng dụng thành công điện toán đám mây vào năm 1999. Công ty này đã tiên phong thực hiện ý tưởng sử dụng Internet để cung cấp chương trình phần mềm cho người dùng cuối kì người nào có Internet đều có thể truy cập và tải chương trình ứng dụng. Các doanh nghiệp cũng có thể mua phần mềm theo yêu cầu, giúp tiết kiệm chi phí mà không cần rời khỏi văn toán đám mây đầu những năm 2000Năm 2002, Amazon đã cho ra mắt các dịch vụ bán lẻ trên trang web của họ. Cơ sở hạ tầng điện toán đám mây lúc này đã cho phép họ sử dụng các máy tính với mức công suất hiệu quả năm 2006, Amazon lại tiếp tục tung ra một loại dịch vụ có tên “Amazon Web Services”, chuyên cung cấp các loại dịch vụ trực tuyến cho các trang web và khách hàng khác. Trong đó, Amazon Mechanical Turk - một trang web của Amazon Web Services, cung cấp nhiều dịch vụ dựa trên công nghệ này như lưu trữ, tính vụ trực tuyến dành cho trang web được Amazon phát triển vào năm thời điểm này, Google đã ra mắt công chúng với dịch vụ Google Docs. Dưới dịch vụ này, người dùng có thể lưu trữ, chỉnh sửa dữ liệu, chia sẻ thông tin trực năm sau đó, IBM, Google và một số trường đại học hợp tác để phát triển mạng lưới máy chủ cho các nghiên cứu cần bộ xử lý nhanh và bộ dữ liệu khổng lồ. Năm 2007 cũng là thời điểm Netflix ra mắt dịch vụ phát video trực tuyến sử dụng công nghệ Cloud 2008, Eucalyptus đã cung cấp nền tảng tương thích API AWS đầu tiên, được sử dụng để phân phối các đám mây đoạn 2010 và trở về sauMặc dù ý tưởng về đám mây riêng đã được khởi xướng vào năm 2008, nhưng chúng vẫn chưa thực sự trở nên phổ biến và phát triển mạnh mẽ. Mãi đến khi mối lo ngại mới về bảo mật kém trên các đám mây công cộng đã tạo ra động lực lớn thúc đẩy việc sử dụng đám mây 2010, nhiều công ty như AWS, Microsoft, OpenStack đã phát triển các đám mây riêng và hoạt động khá hiệu quả. Những năm sau đó, công nghệ điện toán đám mây đã nhanh chóng được các công ty lớn khác nắm bắt và tận dụng lợi ích của chúng IBM - IBM SmartCloud, Apple - ICloud, Oracle - Oracle Cloud.Công nghệ điện toán đám mây dần được đón nhận bởi công chúng vì sự hữu ích của năm 2014, điện toán đám mây đã phát triển hoàn thiện các tính năng cơ bản của nó và yếu tố bảo mật dần trở thành mối quan tâm lớn của xã hội. Tận dụng đặc điểm này, các dịch vụ về bảo mật đám mây cũng đã hình thành, khả năng bảo vệ của loại dịch vụ này được đánh giá không hề kém cạnh với hệ thống bảo mật IT truyền LuậnTrên đây là bài viết về lịch sử ra đời và phát triển của điện toán đám mây. Hy vọng nội dung này sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về Cloud Computing. Cảm ơn bạn đã theo Dataversity Lịch sử hình thành máy phát điện, khám phá những điều thú vị từ lịch sử hình thành của chiếc máy phát điện đầu tiên trên thế giới nhé. Năm 1831, nhà vật lí, nhà hóa học người Anh Michael Faraday Michael Faraday 1791 ~ 1867 trong các thử nghiệm của mình phát hiện ra rằng khi nam châm chuyển động trong cuộn dây, cuộn dây sẽ sinh ra một dòng điện, đây chính là hiện tượng cảm ứng điện từ mà ngày nay chúng ta đều biết đến. Ông cũng thấy rằng việc sử dụng các tương tác điện từ có thể tạo ra lực quay, từ nghiên cứu của mình, Faraday đã sáng chế ra chiếc máy phát điện chạy dầu đầu tiên trên thế giới, góp phần quan trọng cho việc sử dụng năng lượng điện của con người. Nghiên cứu của Faraday đã đạt được kết quả xuất sắc, vì thế các thế hệ sau này đã lấy Fara F làm đơn vị đại lượng điện dung để tưởng nhớ ông. Năm 1866, nhà khoa học Đức Ernst Werner Von Siemens 1816 ~ 1892 đã chế tạo ra máy phát điện tự kích , năm 1870, nhà khoa học Bỉ Z T Cram 1826 ~ 1901 đã sáng chế ra máy phát điện dòng điện 1 chiều tự kích, sau khi liên tục cải tiến, kỹ thuật điện máy đã đạt được những bước thành công nhất định, vào năm 1877 máy phát điện bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển thương mại hóa. About mxdthanglong Bài này đã được đăng trong Tin tức máy phát điện. Đánh dấu đường dẫn tĩnh. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH MÁY PHÁT ĐIỆN 1. Khái niệm về máy phát điện Máy phát điện là thiết bị biến đổi cơ năng thành điện năng thông thường sử dụng nguyên lý cảm ứng điện từ. Nguồn cơ năng sơ cấp có thể là các động cơ tua bin hơi, tua bin nước, động cơ đốt trong, tua bin gió hoặc các nguồn cơ năng khác. Để chuyển đổi ngược điện năng sang cơ năng, người ta dùng động cơ điện. Máy phát điện và động cơ điện có rất nhiều đặc điểm giống nhau. Vậy nên, một số loại động cơ có thể biến thành máy phát điện để tạo ra điện năng. Máy phát điện giữ một vai trò then chốt trong các thiết bị cung cấp điện. Nó thực hiện ba chức năng phát điện, chỉnh lưu, hiệu chỉnh điện áp. 2. Lịch sử hình thành và phát triển của máy phát điện ​Trước khi từ tính và điện năng được khám phá, các máy phát điện đã sử dụng nguyên lý tĩnh điện. Máy phát điện Wimshurst đã sử dụng cảm ứng tĩnh điện. Máy phát Van de Graaff đã sử dụng một trong hai cơ cấu sau + Điện tích truyền từ điện cực có điện áp cao + Điện tích tạo ra bởi sự ma sát Máy phát tĩnh điện được sử dụng trong các thí nghiệm khoa học yêu cầu điện áp cao. Do sự khó khăn trong việc tạo cách điện cho các máy phát tạo điện áp cao, thế nên máy phát tĩnh điện được chế tạo với công suất thấp và không bao giờ được sử dụng cho mục đích phát điện thương mại. a/ Đĩa Faraday Nguyên lý hoạt động của máy phát điện được khám phá vào khoảng năm 1831-1832 bởi Michael Faraday. Nguyên lý như sau một sức điện động được tạo ra trong một cuộn dây dẫn bởi từ thông biến thiên bao quanh nó. Nguyên lý này sau này được gọi là Định luật cảm ứng Faraday. Sau đó, Ông ta cũng đã chế tạo máy phát điện từ đầu tiên được gọi là "đĩa Faraday", nó dùng một đĩa bằng đồng quay giữa các cực của một nam châm hình móng ngựa. Nó đã tạo ra một điện áp một chiều nhỏ và dòng điện lớn. b/ Dynamo Dynamo là máy phát điện đầu tiên có khả năng cung cấp điện năng cho công nghiệp. Dynamo sử dụng nguyên lý cảm ứng điện từ để biến đổi năng lượng quay cơ học thành dòng điện xoay chiều. Cấu tạo của dynamo bao gồm một kết cấu tĩnh mà nó tạo ra từ trường mạnh và một cuộn dây quay. Ở các máy phát dynamo nhỏ, từ trường được tạo ra bằng các nam châm vĩnh cửu, đối với các máy lớn, từ trường được tạo ra bằng các nam châm điện. Máy phát dynamo đầu tiên dựa trên nguyên lý Faraday được chế tạo vào năm 1832 do Hippolyte Pixii một nhà chế tạo thiết bị đo lường. + Từ thí nghiệm Ông cho nam châm quay được định vị sao cho cực Nam và cực Bắc của nó đi ngang qua một mẫu sắt được quấn bằng dây dẫn. Pixii phát hiện rằng nam châm quay đã tạo ra một xung điện trong dây dẫn mỗi lần một cực đi ngang qua cuộn dây. Ngoài ra, các cực Bắc và Nam của nam châm đã tạo ra một dòng điện có chiều ngược nhau. + Sau đó, bằng cách bổ sung một bộ chuyển mạch, Pixii đã có thể biến đổi dòng điện xoay chiều thành dòng điện một chiều. Không giống như đĩa Faraday, nhiều vòng dây được nối nối tiếp được sử dụng trong cuộn dây chuyển động của dynamo. Điều này cho phép điện áp đầu cực của máy cao hơn so với đĩa Faraday tạo ra, do đó điện năng có thể phân phối ở mức điện áp thích hợp. c/ Jedlik dynamo Năm 1827, Anyos Jedlik bắt đầu thử nghiệm với các thiết bị quay có từ tính mà ông gọi là các rotor tự từ hóa. Trong mẫu vật đầu tiên của một bộ khởi động đơn cực, đã được hoàn tất trong khoảng 1852 và 1854 cả phần tĩnh lẫn phần quay đều là nam châm điện. Ông đã trình bày nguyên lý của dynamo ít nhất là 6 tháng trước Ernst Werner von Siemens và Charles Wheatstone. Trên thực chất nguyên lý của nó là thay vì sử dụng nam châm vĩnh cửu thì dùng 2 nam châm điện đối xứng nhau để tạo ra từ trường bao xung quanh rotor. d/ Gramme dynamo Một thời gian sau đó các nhà khoa học nhận thấy cả hai thiết kế trên đều tồn tại một vấn đề như nhau Chúng tạo ra những xung dòng điện nhọn đầu không mong muốn. Vào thời điểm đó, Antonio Pacinotti là một nhà khoa học người Ý đã tìm cách giải quyết vấn đề bằng cách thay các cuộn dây tròn bằng các cuộn dây hình xuyến, tạo ra bằng cách quấn trên một vòng thép. Như vậy luôn có một số vòng của cuộn dây sẽ thông qua từ trường và làm cho điện áp, dòng điện có dạng phẳng hơn. Vài năm sau đó, Zénobe Gramme đã thực hiện lại thiết kế này khi thiết kế một số nhà máy điện ở Paris trong thập niên 1870. Thiết kế này bây giờ được gọi là Gramme dynamo. Những phiên bản khác nhau đã được phát triển, và chế tạo từ dây, nhưng nguyên lý cơ bản về những cuộn dây xếp theo vòng đã trờ thành trái tim của tất cả các dynamo hiện nay. Từ những năm 20 thế kỷ trước, nhiều Nhà máy điện như Cửa Cấm, Thượng Lý, Yên Phụ,… lần lượt ra đời để phục vụ cho bộ máy cai trị của thực dân Pháp tại Việt Nam. Hầu hết các nhà máy được xây dựng với công suất nhỏ, đội ngũ những người thợ làm việc tại đây vô cùng vất vả, gian khổ. Nhưng chính từ trong bóng tối của áp bức, đô hộ, họ đã sớm được giác ngộ cách mạng, trở thành lực lượng nòng cốt trong phong trào công nhân đấu tranh chống thực dân Pháp và tiếp đó là kháng chiến chống Mỹ. Có thể nói, mỗi Nhà máy điện là một câu chuyện huyền thoại. Dù Nhà máy điện luôn là mục tiêu hủy diệt của hàng loạt trận đánh bom ác liệt, nhưng cán bộ, công nhân các Nhà máy điện vẫn kiên cường bám trụ, quyết giữ vững dòng điện sáng, chắc tay súng chiến đấu bảo vệ nhà máy. Nhiều người đã ngã xuống, nhưng họ sẽ mãi được các thế hệ làm điện tiếp nối ghi nhớ và vinh danh. Nhiều Nhà máy điện đã bị tàn phá nặng nề, buộc phải ngừng hoạt động, nhưng những di tích lịch sử, những gì còn lại của quá khứ sẽ luôn được trân trọng và gìn giữ… Nhà máy điện Thanh Hóa Nhà máy điện Thanh Hóa có 4 đơn vị phát điện là Phân xưởng Lôcômôbi Hàm Rồng, Phân xưởng Cổ Định, Phân xưởng Bàn Thạch và Phân xưởng Nhà máy điện 4 - 4 với tổng công suất kW, được xây dựng từ năm 1956 đến năm 1964. Đầu năm 1956, Nhà máy điện Lôcômôbi Hàm Rồng được khởi công xây dựng, công suất đặt là 600 kW. Ngày 18/01/1958, Nhà máy chính thức phát điện. Nhà máy Nhiệt điện Cổ Định là nhà máy thứ hai được xây dựng tại Thanh Hóa, cấp điện cho khai thác quặng mỏ cờ-rômit Cổ Định. Nhà máy được khởi công xây dựng ngày 22/11/1958, công suất thiết kế là 2x1500 kW. Ngày 6/4/1961, Bộ Thủy lợi – Điện lực đã quyết định thành lập Nhà máy điện Thanh Hóa trên cơ sở sáp nhập Nhà máy điện Lôcômôbi và Nhà máy điện Cổ Định. 2 Nhà máy điện này trở thành 2 phân xưởng sản xuất điện của Nhà máy điện Thanh Hóa. Năm 1962, Nhà máy điện Thanh Hóa có thêm 1 đơn vị phát điện là Phân xưởng điện Bàn Thạch ở Thọ Xuân, công suất 960 kW, được xây dựng với sự viện trợ của Chính phủ Liên Xô, cấp điện cho các trạm bơm nước tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Do nhu cầu sử dụng điện ngày càng tăng, Thanh Hóa đã khởi công xây dựng cơ sở phát điện thứ 4 vào đầu năm 1960, công suất thiết kế là kW. Máy móc, thiết bị phát và truyền tải điện do Hungari cung cấp. Ngày 4/4/1964, Nhà máy được khánh thành, đi vào hoạt động và được đặt tên là Nhà máy điện 4-4. Nhà máy điện Thanh Hóa năm 1960. Nguồn ảnh Trần Nguyên Hợi Từ cuối năm 1964, Đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, Nhà máy điện Thanh Hóa đã thành lập đội tự vệ chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Nhà máy, bảo vệ sản xuất. Từ khi thành lập, Đội tự vệ Nhà máy luôn là nòng cốt trong công tác chuẩn bị chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của máy bay Mỹ. Đội tự vệ đã đào 750 hầm trú ẩn, mét giao thông hào có 950 m qua núi làm các công cụ phục vụ chiến đấu, chuyển các thiết bị, máy dự phòng đến địa điểm an toàn… Trong 3 năm 1965-1968, Nhà máy điện Thanh Hóa có 9 cán bộ, công nhân hy sinh và 34 người bị thương vì bom đạn của máy bay Mỹ. Giặc Mỹ đã ném xuống Nhà máy quả bom các loại, 66 thùng bom bi mẹ, 36 quả bom lân tinh, bắn 306 tên lửa, 1456 quả rốc két, 182 quả đại bác. Bị đánh phá ác liệt, cán bộ công nhân Nhà máy điện Thanh Hóa đã di chuyển thiết bị, máy móc và sơ tán các cơ sở phát điện. Đồng thời, để đảm bảo điện cho thời chiến, Nhà máy điện Thanh Hóa đã lập 5 cụm phát điện nhỏ, lắp đặt từ các máy phát điện diesel, tổng công suất kW. Với sự nỗ lực của CBCNV, sản lượng điện của Nhà máy điện Thanh Hóa suốt trong 10 năm diễn ra chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ đã không bị giảm sút mà còn gia tăng. Năm 1965, sản lượng điện kWh. Năm 1970, đạt kWh. Năm 1975, sản lượng kWh. Tháng 12/1966, Nhà máy điện Thanh Hóa đã vinh dự được Quốc hội và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. CBCNV Nhà máy có 2 người được tặng danh hiệu Anh hùng. Tiểu đoàn tự vệ Nhà máy điện Thanh Hóa được công nhận là Đơn vị Quyết thắng, được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Hai, hạng Ba. Nhà máy điện Thượng Lý Hải Phòng Nhà máy điện Thượng Lý tiền thân là Xưởng phát điện của Nhà máy Xi măng Hải Phòng. Năm 1955, ngay sau khi tiếp quản thành phố Hải Phòng, Chính quyền cách mạng non trẻ của Thành phố đã bắt tay ngay vào công cuộc cải tạo, khôi phục kinh tế. Xưởng phát điện nhanh chóng được sửa chữa phục vụ sản xuất xi măng, góp phần tái thiết thành phố Cảng. Năm 1959, Bộ Công nghiệp cho bổ sung thêm 2 lò hơi Ba Lan. Ngày 1/4/1961, Bộ Công nghiệp quyết định giao Xưởng phát điện Thượng Lý cho Nhà máy điện Hải Phòng quản lý, từ đó việc cung cấp điện cho xi măng ngày càng hiệu quả hơn. Do thiết bị máy móc cũ, khi vận hành thường hay xảy ra sự cố, Nhà máy đã thành lập phân xưởng Sửa chữa. Năm 1969, Nhà máy có gần 500 cán bộ, nhân viên. Công suất nhà máy nhỏ. Máy móc, thiết bị lạc hậu, các khâu sản xuất phần lớn phải làm thủ công, mất nhiều công sức,thời gian. Hằng ngày, công nhân phải bốc than từ sông Thượng Lý, chở bằng xe goòng về kho xa vài trăm mét. Sau khi đốt lò, lại phải dùng xe goòng chở xỉ ra bãi thải. Nhà máy có phân xưởng chế biến than cấp cho lò nung, nên môi trường xung quanh Nhà máy lúc nào cũng bụi bặm, nhem nhuốc. Cán bộ, công nhân làm 3 ca liên tục, không có nghỉ Tết, nghỉ lễ. Hằng ngày, anh em phải đi đò qua sông hoặc thậm chí bám dây cáp, miệng ngậm cặp lồng cơm, bơi qua sông vì cầu Thượng Lý và cầu Quay đều đã bị máy bay Mỹ đánh sập. Ngày 20/4/1967, Mỹ đánh phá hủy diệt Nhà máy điện Cửa Cấm và đánh sang Nhà máy điện Thượng Lý. Công nhân được lệnh xuống hầm trú ẩn. Chỉ có 3 công nhân trực ca ở lại. Dưới làn bom đạn, họ vẫn bám trụ kiên cường để dòng điện sáng. Năm 1969, Mỹ ném bom vào Nhà máy, quả bom rơi trúng băng chuyền than và chưa phát nổ nếu bom nổ thì tan Nhà máy. Những cán bộ, công nhân lúc đó quyết định phải lập đội tháo gỡ bom. Rất nhanh chóng, đội tháo bom gồm 3 người có chuyên môn Thợ cơ khí, thợ điện, thợ máy được giao thực hiện nhiệm vụ. Nhà máy còn tổ chức lễ “truy điệu sống” cho cả 3 người trước lúc tháo bom, để anh em được “chia tay” trong tình cảm ấm áp tình đồng đội, tình đồng chí, tình người. Ông Hoàng Ngọc Nhạc – một trong ba người tham gia nhiệm vụ nguy hiểm này cho biết, lúc bấy giờ ông 28 tuổi, xung phong vào đội tháo bom, không hề sợ cái chết mà chỉ thấy vui và tự hào. Quả bom nặng 950kg, được 3 công nhân trực tiếp tháo bằng vồ gỗ trong vòng 1 tiếng. Sau khi cắt dây an toàn, quả bom được đưa ra ngoài bằng xe kéo giao cho Quận đội tại Hồng Bàng. Ông Nguyễn Vinh Hiển – Nguyên Trưởng ca Nhà máy điện Thượng Lý chia sẻ, ông từng chứng kiến hai trận ném bom dữ dội của Mỹ xuống Nhà máy vào ngày 20/4/1967 và 16/4/1972. Theo ông Hiển, trận đánh năm 1967 phá hủy 4 lò BW của Nhà máy, làm chết và bị thương nhiều cán bộ, công nhân. Nhưng trận đánh năm 1972 còn ác liệt, dữ dội hơn nhiều. Bom B52 của Mỹ trút xuống từng đợt, cứ 30 phút lại rải xuống Nhà máy một lần, suốt từ chập tối đến đêm, tất cả 8 lượt oanh tạc, làm cho Nhà máy bị thiệt hại nặng nề. Thế nhưng cán bộ, công nhân Nhà máy vẫn kiên cường bám trụ, lạc quan, khi vào ca còn “oẳn tù tì” với nhau để xem hôm nay ai bị… “cắt sổ gạo”! Tuy bị thiệt hại nặng nề từ những trận đánh phá thảm khốc của máy bay Mỹ, nhưng Nhà máy điện Thượng Lý vẫn “chia lửa" với các đơn vị bạn, tăng cường chi viện cho hầu hết các Nhà máy điện miền Bắc như Uông Bí, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Việt Trì… Năm 1972, Nhà máy cử đoàn công tác gồm 15 cán bộ, nhân viên tăng cường bảo vệ Nhà máy Thủy điện Thác Bà. Năm 1984, Nhà máy điện Thượng Lý ngừng hoạt động vì máy móc, thiết bị lạc hậu nên hiệu quả kinh tế thấp, công suất phát không cao kW. Tuy nhiên, hình ảnh Nhà máy điện Thượng Lý anh dũng trong chiến đấu chống máy bay Mỹ, kiên cường bám trụ trong sản xuất, giữ vững dòng điện cho thành phố Hoa Phượng Đỏ suốt những năm dài chiến đấu vẫn mãi mãi còn in sâu đậm trong tâm trí người dân đất Cảng, cũng như nhân dân cả nước. Nhà máy điện Uông Bí Quảng Ninh Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí là nhà máy sử dụng công nghệ ngưng hơi thuần túy, được Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khởi công xây dựng ngày 19/5/1961. Sự ra đời của Nhà máy là sự kiện quan trọng trong lịch sử phát triển ngành Công nghiệp non trẻ của Việt Nam vào thời điểm miền Bắc vừa được giải phóng. Với công trình này, đầu thập niên 60 của thế kỷ XX, Việt Nam đã có một nhà máy nhiệt điện tầm cỡ bậc nhất trong khu vực Đông Nam Á. Ngày 20/11/1963, dòng điện đầu tiên của Nhà máy đã hòa vào lưới điện miền Bắc. Ngày 18/1/1964, sau gần 3 năm khẩn trương xây dựng và lắp đặt thiết bị, với sự giúp đỡ tận tình của các chuyên gia Liên Xô, cùng với công sức của hơn cán bộ và công nhân Việt Nam, Nhà máy đã hoàn thành xây dựng đợt 1 gồm 2 lò, 2 tổ máy, công suất 24 MW. Năm 1965, Nhà máy hoàn thành xây dựng đợt 2, công suất 24 MW. Công nhân Nhà máy điện Thượng Lý mừng công hoàn thành vượt mức kế hoạch đại tu máy tuabin số 3 trước 10 ngày Hải Phòng, 1965. Nguồn ảnh Trần Nguyên Hợi Ngày 15/12/1965, Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí phải hứng chịu trận ném bom đầu tiên của máy bay Mỹ. Nhà máy bước sang giai đoạn mới, vừa sản xuất, vừa chiến đấu bảo vệ dòng điện. Trong những năm chống Mỹ, quả bom các loại của không lực Hoa Kỳ đã ném xuống địa bàn Nhà máy, làm cho Nhà máy phải tiến hành 10 đợt phục hồi. CBCNV Nhà máy đã anh dũng trong sản xuất, quyết tâm bám lò, bám máy, đoàn kết chiến đấu chống lại những đợt ném bom hủy diệt của máy bay Mỹ, giữ vững tinh thần lao động sản xuất và chiến đấu. 8 CBCNV- Chiến sỹ tự vệ Nhà máy đã hy sinh trong khi thực hiện nhiệm vụ. Năm 1966, công trình “ống khói ngầm” đưa ống khói nhà máy chìm dưới lòng sông để ngụy trang, tránh máy bay địch ném bom ra đời và đã đi vào lịch sử như một sáng kiến đặc biệt, thể hiện nghị lực, ý chí kiên cường, bất khuất của tuổi trẻ - Công nhân điện Uông Bí. Công trình đã được Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam biểu dương và lắp thành mô hình đưa sang triển lãm tại Matxcơva, giới thiệu sự sáng tạo của tuổi trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, được bạn bè quốc tế ca ngợi và thán phục. Từ 1964- 1971, Nhà máy đã đóng góp sản lượng điện lên tới kWh cho miền Bắc XHCN, năm nào cũng vượt mức kế hoạch sản xuất điện. Từ 1973- 1975, Nhà máy thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là khôi phục và mở rộng, nâng cao hiệu quả sản xuất theo tinh thần Nghị quyết 22 của Trung ương Đảng. Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, Nhà máy điện Uông Bí đã hoàn thành việc mở rộng quy mô sản xuất đợt 3 năm 1976 với công suất 50 MW và đợt 4 năm 1977- 1980, công suất 55 MW. Tổng công suất của Nhà máy sau 4 đợt mở rộng là 153 MW. Trong 10 năm từ 1976- 1986, Nhà máy đã vượt qua nhiều khó khăn của thời kỳ kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp, hoàn thành và đưa vào sử dụng nhiều công trình mới như Đập tràn sông Uông, lò hơi số 1, tua-bin, máy phát số 1, băng tải 1 và 2, băng tải 3 và 4, Nhà cơ khí, Nhà che than khô, hệ thống đường sắt… Nhà máy đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba năm 1981. Cuối thập niên 80 thế kỷ XX, với sự tham gia phát điện của một số Nhà máy điện công suất lớn như Nhiệt điện Phả Lại và Thủy điện Hòa Bình, miền Bắc bắt đầu xuất hiện tình trạng thừa điện. Trước tình hình đó, Bộ Năng lượng đã chỉ đạo Nhiệt điện Uông Bí phải dừng lò. Đây là giai đoạn khó khăn nhất của Nhà máy. Đảng bộ Nhà máy và Ban Giám đốc đã sáng suốt chọn giải pháp Tập trung vào công tác bảo quản máy móc thiết bị bằng phương pháp phòng mòn với vị thế dự phòng, sẵn sàng phát điện khi đường dây 500 kV đã đóng điện. Cùng với sự phát triển của ngành Điện, từ năm 1994, Nhà máy đã phát điện trở lại, đạt sản lượng 650 triệu kWh/năm. Tiếp đà phát triển, Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí thực hiện Dự án Uông Bí mở rộng 1, công suất 300 MW, sản lượng điện 1,8 tỷ kWh/năm. Dự án được khởi công năm 2002, đã hòa đồng bộ vào lưới điện quốc gia ngày 18/12/2006. Tháng 3/2005, Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí đổi tên thành Công ty Nhiệt điện Uông Bí theo Quyết định số 15/2005/QĐ – BCN. Năm 2008, Công ty Nhiệt điện Uông Bí tiếp tục khởi công Dự án Uông Bí mở rộng 2, công suất 330 MW, mỗi năm hòa vào lưới điện quốc gia 2 tỷ kWh. Theo Quyết định số 405/QĐ - EVN, ngày 30/6/2010 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Công ty chuyển sang mô hình Công ty TNHH MTV, tên gọi Công ty TNHH MTV Nhiệt điện Uông Bí. 1. Giới thiệu về xe điện khái niệm, sự ra đời và phát triển Xe điện là loại phương tiện sử dụng động cơ điện để dẫn động thay vì động cơ đốt trong như xe chạy bằng xăng, dầu. Động cơ điện giúp chuyển hóa điện năng thành cơ năng, không thải ra các khí CO2 nên được đánh giá là phương tiện xanh, thân thiện với môi trường. Hiện có các loại xe điện phổ biến như - Xe đạp điện xe chạy bằng điện có gắn bàn đạp; - Xe máy điện xe chạy bằng ắc quy/pin và không có bàn đạp; - Xe ô tô điện có chức năng như một chiếc xe oto chạy bằng xăng/dầu, chỉ khác nguồn năng lượng là điện. VinFast là thương hiệu xe máy điện đầu tiên tại Việt Nam Lịch sử xe điện từ những năm 1859 Xe điện có lịch sử ra đời từ năm 1859 với hình thái ban đầu khá thô sơ, đơn giản nhưng đặt một nền móng quan trọng giúp thay đổi diện mạo thị trường xe điện hiện nay. Các từ khóa như chiếc xe điện đầu tiên là gì hay tên người phát minh ra xe điện đầu tiên là ai… đang được rất nhiều người quan tâm. - Năm 1859 Nhà vật lý học Gaston Planté sáng chế ra pin sạc giúp tích trữ trên xe điện. - Năm 1880 Nhà phát minh Gustave Trouvé đã gắn pin sạc vào xe ba bánh, tạo ra chiếc xe chạy điện đầu tiên. - Năm 1884 Thomas Parker tạo ra chiếc ô tô điện đầu tiên trên thế giới tại Anh. - Năm 1890-1891 William Morrison chế tạo ra chiếc xe điện đầu tiên ở Mỹ với 6 chỗ ngồi và tốc độ tối đa 23km/h. - Năm 1897 Walter Bersey chế tạo ra đội taxi điện hoạt động trên đường phố London. Sau đó, loại taxi điện được sử dụng rộng rãi ở New York. - Năm 1912 xe điện bùng nổ do được nhiều hộ gia đình ưa chuộng sử dụng. Có tới chiếc tại Mỹ. - Đến những năm 1920 hãng Ford sản xuất xe xăng với giá rẻ khiến xe xăng trở nên phổ biến hơn, tác động rất lớn tới xe điện. Thời điểm đó, xăng dầu cũng bớt đắt đỏ, trạm xăng mọc lên nhiều hơn, tiện lợi cho người dùng. Do đó, xe điện bị đưa vào dĩ vãng và ít được ưa chuộng hơn xe xăng. Những chiếc xe điện ở năm 1912 được ra mắt Nguồn Sưu tầm Lịch sử ra đời xe máy điện và sự phát triển Xe máy điện là loại xe điện được sử dụng ngày càng rộng rãi hiện nay. Lịch sử của xe máy điện có phần không được rõ ràng. Lịch sử ghi nhận, trước năm 1911 có nhiều đơn xin cấp bằng sáng chế cho xe đạp điện nhưng xe máy điện thời điểm đó vẫn chưa được nhắc đến. - Năm 1911 Tạp chí Cơ học Phổ biến đã đề cập đến sự ra đời của một chiếc xe máy điện với khả năng đi được 121km-160km/lần sạc và tốc độ tối đa có thể đạt là 56km/h. - Năm 1919 Công ty Ransomes, Sims & Jefferies đã chế tạo ra chiếc xe máy điện nguyên mẫu có pin được lắp dưới yên xe. - Năm 1936 hai anh em nhà Limelette thành lập công ty xe máy điện có tên là Socovel. - Vào thế chiến thứ 2 California đã phát minh ra chiếc mô tô điện hai bánh có thể kéo một chiếc xe moóc một bánh. Năm 1946, Williams thành lập Công ty Marketeer sản xuất rất nhiều loại xe điện khác nhau. - Năm 1967 Karl Kordesch đã chế tạo một chiếc xe máy điện lai pin nhiên liệu với khả năng đi được 320km/lần sạc và tốc độ tối đa là 40km/h. - Năm 1974 Nhà sản xuất Auranthic Corp ở California, đã sản xuất một chiếc mô tô nhỏ có tên là Charger. Nó có khả năng đi được tốc độ tối đa 48km/h và quãng đường 80km/lần sạc. - Năm 1988 ông chủ của Công ty Eyeball Engineering đã thử nghiệm chiếc mô tô kéo điện của mình ở Bonneville. - Năm 1996 chiếc mô tô điện EMB Lectra được chế tạo bởi Electric Motorbike Inc sử dụng động cơ biến trở. Nó có khả năng đi được 72km/h và quãng đường 56km/lần sạc. - Vào năm 2006, Vectrix đã giới thiệu chiếc xe tay ga điện hiệu suất cao đầu tiên được bán trên thị trường. - Tháng 2 năm 2009 Công ty Mission Motors ở San Francisco do một cựu kỹ sư Tesla Motors dẫn đầu, đã trình làng Mission One, một chiếc xe máy điện có tốc độ 150 dặm/ giờ, trở thành chiếc xe điện được sản xuất nhanh nhất trên thế giới. Những năm sau đó, xe máy điện liên tục được ra đời, phá vỡ những kỷ lục về tốc độ và quãng đường tối đa đi được của các siêu phẩm trước đó. - Vào năm 2020, Ola Electric Mobility, một bộ phận của Ola Cabs, đã lên kế hoạch xây dựng nhà máy sản xuất xe điện lớn nhất thế giới. Cùng năm, giáo sư Juan Ayala đã thiết kế và phát minh ra hệ thống xe điện cho thuê dựa trên ứng dụng điện thoại thông minh. Xe máy điện cho đến nay vẫn đang phát triển mạnh mẽ, viết tiếp lịch sử xe điện thế giới hơn 100 năm. Việt Nam cũng đã góp mặt vào thị trường xe điện với những sản phẩm ưu việt và nổi bật. >>> Tìm hiểu thêm Tại sao xu hướng xe điện tạo sóng đồng loạt trên toàn thế giới? Xe máy điện ngày càng phát triển với thiết kế độc đáo và công nghệ hiện đại Nguồn Sưu tầm 2. Sự ra đời và phát triển xe điện tại thị trường Việt Nam - Ngày 2/9/2017 Tổ hợp sản xuất ôtô và xe máy điện VinFast được khởi công xây dựng. Nhà máy sản xuất xe của VinFast có diện tích 335 hecta với tổng số vốn đầu tư đạt 3,5 tỷ USD.. - Ngày 3/11/2018 Khánh thành nhà máy sản xuất xe máy điện thông minh và ra mắt dòng sản phẩm đầu tiên là Klara. Nhà máy sản xuất VinFast có diện tích 335 hecta Nguồn Sưu tầm - Ngày 20/11/2018 VinFast tổ chức Lễ ra mắt 3 dòng sản phẩm ô tô, xe máy điện tại Hà Nội, trong đó bao gồm 2 mẫu xe máy điện VinFast Klara A1 Pin Lithium-ion, VinFast Klara A2 Pin axit-chì. Sau đó 1 tuần, VinFast cũng tiếp tục giới thiệu tại TP. Hồ Chí Minh vào ngày 26/11/2018. - Ngày 14/6/2019 Khánh thành nhà máy sản xuất ô tô VinFast tại Cát Hải, Hải Phòng sau 21 tháng xây dựng. - Ngày 12/09/2019 VinFast chính thức công bố bán ra hai dòng xe máy điện mới VinFast Ludo và VinFast Impes mang phong cách thể thao, cá tính đồng thời ra mắt hệ thống trạm đổi pin tiện dụng, rộng khắp trên cả nước. Xe máy điện VinFast Impes được giới trẻ rất ưa chuộng - Ngày 26/12/2019 Giới thiệu phiên bản nâng cấp xe máy điện VinFast Klara S. - Ngày 1/6/2020 VinFast chính thức khai trương văn phòng tại Melbourne, Australia. - Ngày 9/9/2020 VinFast đã ký thỏa thuận mua lại Trung tâm thử nghiệm xe hơi lâu đời và hiện đại bậc nhất thế giới Lang Lang, bang Victoria, Australia. - Ngày 21/01/2021 VinFast giới thiệu 2 mẫu mới là xe máy điện VinFast Theon công nghệ cao và xe máy điện VinFast Feliz, khẳng định năng lực nghiên cứu và phát triển công nghệ hàng đầu tại thị trường xe điện thông minh. >>> Tìm hiểu thêm Tổng hợp các dòng xe VinFast thiết kế, vận hành và giá bán VinFast Theon hiện đang là chiếc xe máy điện VinFast cao cấp nhất - Ngày 24/3/2021 VinFast chính thức công bố nhận đặt hàng ô tô điện thông minh VF e34 - mẫu xe điện đầu tiên mở bán tại Việt Nam, đánh dấu cuộc cách mạng trong ngành công nghiệp xe điện Việt Nam nói riêng và khu vực Đông Nam Á nói chung. - Ngày 8/4/2021 VinFast đưa vào vận hành tuyến xe buýt điện thông minh đầu tiên tại Việt Nam tại khu vực Vinhomes Ocean Park và dự kiến sẽ khai thác thêm nhiều tuyến ở những thành phố lớn. Đến nay, VinFast đã và đang làm nên lịch sử xe điện Việt Nam và không ngừng tham vọng vươn xa hơn nữa. Cụ thể, xe điện thương hiệu VinFast sẽ ra mắt thị trường Châu Âu và Mỹ vào năm 2022. Theo đó, xe ô tô điện của VinFast sẽ có giá hợp lý hơn so với các mẫu xe điện khác ở Mỹ. Mục tiêu doanh số của VinFast đang đặt ra là tiêu thụ xe. VinFast không chỉ chú trọng vào việc tạo ra những chiếc xe điện tốt mà còn xây dựng hệ sinh thái trạm sạc VinFast, trung tâm dịch vụ tốt nhất, tiện lợi nhất cho người dùng. Dự kiến trong năm 2021, VinFast sẽ triển khai hoạt động hơn trạm sạc với hơn cổng sạc cho xe điện VinFast tại nhiều địa điểm như chung cư, trung tâm thương mại, siêu thị, trường học, tòa nhà văn phòng… Ngoài ra, VinFast còn xây dựng hơn 200 Showroom/đại lý ủy quyền trên khắp các tỉnh thành để giúp người dùng có thể dễ dàng tìm được những địa điểm tham khảo sản phẩm cũng như giải đáp các nhu cầu. >>> Tìm hiểu thêm Hệ thống trạm sạc xe điện VinFast “nạp năng lượng nhanh cho xe lăn bánh” Như vậy, lịch sử xe điện đã có hơn 100 năm trên thế giới. Dù đã có những khoảng thời gian bị lãng quên nhưng đến nay xe điện đang trở lại như một xu hướng lựa chọn mới vừa thiết thực vừa hiệu quả lại thân thiện với môi trường. VinFast tự hào là một trong những đơn vị đi đầu trong việc sản xuất và cho ra mắt các mẫu xe điện chất lượng, hiện đại của Việt Nam, đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe trên thế giới. Liên hệ ngay hotline 1900 23 23 89 để được tư vấn giải đáp nhanh nhất!

lich su may phat dien