Thời sự. "Thực túc, binh cường" và nền kinh tế độc lập, tự chủ. Trần Văn - 02/09/2017 08:02. Cách đây 72 năm, bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh viết và công bố trước toàn thế giới tại Quảng trường Ba Đình lịch sử đã mở ra kỷ nguyên mới
Chạm『Con Gái Nên Độc Lập Và Tự Chủ』からお気に入りの楽曲を今すぐ再生。Amazon Music Unlimitedはモバイル端末、タブレット端末、デスクトップでご利用いただけます。モバイルアプリを今すぐダウンロード。
UBND HUYỆN HẢI HẬU CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM PHÒNG NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT Độc lập-Tự do Hạnh phúc Số: /CV-NN Về việc tăng cường các biện pháp phòng, chống dịch bệnh động vật và thống kê tổng đàn gia súc, gia cầm Hải Hậu, ngày 15 tháng 08 năm 2022
Theo Người, dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Bởi vậy, khi nước Việt Nam giành được độc lập từ tay đế quốc, Hồ Chí Minh đòi hỏi chính phủ cách mạng phải đi đến làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, được học
Do vậy, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cơ bản và lâu dài của cách mạng Việt Nam, bảo đảm cho dân tộc ta đi đến tương lai phồn vinh, hạnh phúc. [1]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2021, tr.26. [2][5]Hồ chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, t.4, tr.1, tr.175.
UBND HUYỆN TRỰC NINH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM BCĐ PHỔ CẬP GIÁO DỤC Số: 01/KH-BCĐ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Trực Ninh, ngày tháng 10 năm 2022 . 2 Việc cập nhật dữ liệu trên hệ thống phần mềm phổ cập khó khăn; danh
Mở đầu. Độc lập dân tộc là quyền tự chủ, tự quyết của một dân tộc, quốc gia trong việc tổ chức các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong phạm vi lãnh thổ của mình, không chịu sự tác động, ép buộc, chi phối, thao túng của nước ngoài.
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Số: 1862/KH-SKHCN Thừa Thiên Huế, ngày 06 tháng 10 năm 2022 KẾ HOẠCH tỉnh, thành phố, các chuyên gia về tích hợp Khu Công nghệ cao Thừa Thiên Huế vào Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 để khẳng
App Vay Tiền. "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi" là mong ước lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Người đã dành trọn cả cuộc đời mình để thực hiện mong ước đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc tại chiến khu Việt Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ảnh Tư liệu TTXVN “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.” Đó là mong ước lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Người đã dành trọn cả cuộc đời mình để thực hiện mong ước đó. Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh nước nhà bị xâm lược, nhân dân phải chịu cảnh lầm than, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã cảm nhận sâu sắc nỗi đau của một dân tộc mất độc lập, người dân mất tự do. Nỗi đau ấy, cùng với lòng yêu nước thương dân vô bờ bến, đã trở thành nguồn lực vô tận, thôi thúc người thanh niên mới vừa tròn 21 tuổi quyết chí ra đi tìm đường cứu nước. Ngày 2/6/1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra bến Nhà Rồng xin việc. Ngày 3/6/1911, anh được nhận vào làm phụ bếp trên tàu Đô đốc Latusơ Tơrêvin. Ngày 5/6/1911, với tên mới Văn Ba, anh theo tàu rời nước ra đi. Không khoác áo thân sĩ, ra đi trong tư cách một người lao động, khởi nghiệp với đôi bàn tay trắng, với một ý chí mãnh liệt, một nghị lực phi thường, một mình tiến hành cuộc trường chinh ba mươi năm đi tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Chính hành trình này đã giúp Người hiểu rõ cội nguồn những khổ đau của nhân dân lao động là ở sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản đế quốc và hình thành nên ý thức giai cấp rõ rệt. Vì thế, Người đã đến với chủ nghĩa Marx-Lenin một cách tự nhiên, như một tất yếu lịch sử và đã tìm thấy ở đó những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Và trong ba mươi năm đó, có biết bao “phong ba, bão táp” nhưng không ngăn nổi, không làm chùn ý chí, mong muốn “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu” Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 112. Ngày 5/11/1945, Ngày Kháng chiến được tổ chức trên toàn quốc nhằm biểu thị sự ủng hộ của toàn dân đối với cuộc chiến đấu oanh liệt của đồng bào Nam Bộ. Tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự và đọc diễn văn tại Nhà hát lớn, Hà Nội. Ảnh Tư liệu TTXVN Vạch ra con đường cứu nước đúng đắn, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khai thông bế tắc trong đường lối giải phóng dân tộc, mà còn giải quyết đúng đắn, sáng tạo và lãnh đạo thực hiện thắng lợi các vấn đề trọng yếu nhất của cách mạng nước ta. Đó là sự kết hợp chủ nghĩa Marx-Lenin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước để xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc. Đó là việc xây dựng thành công lực lượng cách mạng với Mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân anh hùng, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân đầu tiên ở nước ta. Đó là việc xác định chính xác phương pháp cách mạng phù hợp với thực tiễn đất nước để thực hiện thành công các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trước các biến động hết sức phức tạp trong các quan hệ quốc tế. Đường lối cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã tạo nên sức mạnh tổng hợp và phát huy tác dụng, đưa tới những thắng lợi rực rỡ của cách mạng nước ta. ó là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước do dân làm chủ đầu tiên trong lịch sử dân tộc. ó là thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng iện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu," giải phóng hoàn toàn miền Bắc, xây dựng hậu phương lớn cho công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. ó là thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. ó là thắng lợi bước đầu với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế mà nhân dân ta đang tiến hành. Với những thắng lợi đó, Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước Việt Nam từ nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trở thành một nước đang phát triển có thu nhập trung bình, có vị thế ngày càng quan trọng trên thế giới. Dân tộc Việt Nam chưa bao giờ có được cơ đồ như ngày nay, triển vọng phát triển rất tươi sáng. Có thể khẳng định, cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng cao đẹp về chí khí cách mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nước, yêu nhân dân tha thiết, đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tác phong khiêm tốn, giản dị. Bác để lại cho chúng ta một tấm lòng nhân hậu, một tình cảm chan chứa yêu thương, vì nước, vì dân, vì ảng; một trí tuệ anh minh, mẫn tiệp; một tầm nhìn xa rộng, sâu sắc; một mẫu mực tuyệt vời về cách sống, cách nghĩ, cách viết, cách nói và cách làm việc. Trong những ngày tháng này, đồng bào, đồng chí, chiến sỹ cả nước và bà con ta ở nước ngoài đang hướng về Bác với tất cả lòng thành kính và xiết bao thương nhớ, càng thấm thía và biết ơn công lao trời biển của Bác. Cuộc đời và sự nghiệp của Bác là một bản anh hùng ca, một tấm gương sáng ngời về chủ nghĩa yêu nước, về phẩm chất cộng sản, về trí tuệ uyên bác, đạo đức cách mạng trong sáng và là sự cổ vũ lớn lao đối với các thế hệ người Việt Nam./. Phương Anh TTXVN/Vietnam+
VNHNViệt Nam trong quá trình mở cửa, hội nhập, luôn chú trọng tới sự độc lập, tự chủ. Tính độc lập, tự chủ của Việt Nam thể hiện trước hết trong việc xác định đường lối hội nhập nhất quán. Hội nhập quốc tế trên cơ sở thực lực của mình, tư duy sáng tạo để có chủ trương và chính sách đúng đắn và có những bước đi vững chắc trên con đường độc lập, tự chủ. Việt Nam trong quá trình mở cửa, hội nhập, luôn chú trọng tới sự độc lập, tự chủ. Tính độc lập, tự chủ của Việt Nam thể hiện trước hết trong việc xác định đường lối hội nhập nhất quán. Hội nhập quốc tế trên cơ sở thực lực của mình, tư duy sáng tạo để có chủ trương và chính sách đúng đắn và có những bước đi vững chắc trên con đường độc lập, tự chủ. Trong quá trình hội nhập kinh tế, Việt Nam luôn chú trọng đổi mới trong nước, coi cải cách, hoàn thiện thể chế trong nước là cơ sở để hội nhập kinh tế thành công, đồng thời khai thác, tận dụng các thỏa thuận đã ký và có các biện pháp phòng vệ hợp lý trước những tác động tiêu cực từ hội nhập kinh tế. Ảnh minh họa Độc lập, tự chủ của quốc gia đòi hỏi Việt Nam phải có một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Đó là nền kinh tế có cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và bảo đảm độ an toàn cần thiết; nền kinh tế phát triển bền vững và có năng lực cạnh tranh cao; cơ cấu xuất, nhập khẩu cân đối; đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong một số ngành kinh tế, nhất là những ngành kinh tế quan trọng, chiếm một tỷ lệ không thể chi phối được nền kinh tế; hạn chế hoặc không cho phép đầu tư nước ngoài vào những ngành nhạy cảm... Nói cách khác, một nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hoá là nền kinh tế có khả năng thích ứng cao với những biến động của tình hình quốc tế và ít bị tổn thương trước những biến động đó; trong bất cứ tình huống nào nó cũng có thể cho phép duy trì được các hoạt động bình thường của xã hội và phục vụ đắc lực nhiệm vụ quốc phòng - an ninh. Xây dựng kinh tế độc lập, tự chủ ở nước ta được thể hiện ở độc lập, tự chủ về đường lối phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất - kỹ thuật đủ mạnh; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và sức cạnh tranh cao; tập trung phát triển các ngành, lĩnh vực và sản phẩm kinh tế chủ yếu có vai trò quan trọng hàng đầu, hiệu quả… Cùng với đó, phải bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; an toàn năng lượng, tài chính - tiền tệ, môi trường; đất nước phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững. Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, độc lập về kinh tế của một quốc gia không phải là biệt lập, khép kín, tự cung, tự cấp. Tự chủ không phải là tự quyết định một cách cứng nhắc và tuyệt đối, không tính đến các quy định của các thể chế kinh tế - tài chính quốc tế, không thực hiện đúng các cam kết, luật pháp và thông lệ quốc tế... Tham gia vào sân chơi quốc tế, chúng ta đã thực hiện mở cửa thị trường nội địa, chủ động thay đổi kết cấu kinh tế, đã hình thành các khu công nghiệp tập trung và hướng tới hình thành một số trung tâm kinh tế lớn để thu hút một khối lượng lớn vốn đầu tư. Mặt khác, chúng ta thực hiện tự do hoá nền kinh tế theo các cam kết quốc tế, tức là chuyển giao một số quyền đáng kể từ nhà nước sang thị trường. Trong điều kiện kết cấu độc lập về kinh tế thay đổi như vậy, trọng tâm của việc bảo đảm chủ quyền kinh tế là tăng cường toàn diện năng lực tự chủ kinh tế. Từ việc xác định đúng mục tiêu, nội dung xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chúng ta đã tập trung phát triển các ngành, các lĩnh vực trọng yếu tạo nền tảng cho phát triển bền vững, vừa đáp ứng nhu cầu trong nước trên mọi tình huống, vừa bảo đảm cho xuất khẩu. Nguồn lực để công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ được thu hút cả trong nước và ngoài nước, kết hợp hài hòa giữa ngoại lực và nội lực, trong đó phát huy mạnh mẽ nội lực. Thành công trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong 35 năm đổi mới vừa qua chính là nền kinh tế có bước phát triển tốt và ổn định, tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, xu hướng phát triển năm sau cao hơn năm trước, chất lượng tăng trưởng được nâng lên. Nền kinh tế từng bước được cơ cấu lại gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế được tăng cường, nguồn nhân lực để cung ứng cho phát triển kinh tế - xã hội ngày càng phát triển. Nền kinh tế Việt Nam đã đứng vững và phát triển trước những thách thức to lớn từ các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và nhất là trong đại dịch Covid-19. Chính phủ đã thực hiện tốt vai trò quản lý và kiến tạo. Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, minh bạch, bình đẳng hơn, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế đang được nâng lên. Đáng chú ý, các chỉ số về kết quả hội nhập kinh tế đã đạt được ở mức cao. Theo báo cáo của Chính phủ, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tính chung cả giai đoạn 2016-2020, đạt 167,8 tỷ USD. Hiện đã có hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia đầu tư vào Việt Nam. Vốn FDI vào Việt Nam chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Các đối tác đã cam kết viện trợ hơn 3 tỷ USD cho Việt Nam từ 2018 đến 2020. Đến nay đã có hơn 70 nước công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường đầy đủ. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ thành công là nhân tố trọng yếu để tăng cường nội lực của đất nước. Vũ Văn Hiền, Phó Chủ tịch HĐLTLW
XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ-Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm, đường lối mà xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn, nhằm đảm bảo phát độc lập tự chủ về chính trị, đảm bảo phát triển bền vững có hiệu quả cho nền kinh tế, cho mở kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào nước khác, người khác, hoặc vào một tổ chức kinh tế nào đó về đường lối, chính sách phát triển, không bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh tế, tài chính, thương mại, viên trở... để áp đặt, khống chế, làm tổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Để xây dựng thành công nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện một số biện pháp sau đây+Thứ nhất, hoàn thiện, bổ sung đường lối chung và đường lối kinh tế, xây dựng và phát triển đất nước. + Thứ hai, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đây là nhiệm vụ trọng tâm nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. giúp Việt Nam đi tắt, đón đầu tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước khác.+ Thứ ba, đẩy mạnh quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động HNKTQT đáp ứng yêu cầu và lợi ích của đất nước trong quá trình phát triển. + Thứ tư, tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế bằng đổi mới, hoàn thiênthể chế kinh tế, hành chính, đặc biệt là tăng cường áp dụng khoa học công nghệ hiện đại, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành kinh tế, nhất là những ngành có vị thế của Việt Nam.+ Thứ năm, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong hội nhập quốc tế. -Về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam Độc lập, tự chủ là khẳng định chủ quyền quốc gia, dân tộc.
1. Sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế Trên cơ sở xác định hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị, Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn yêu cầu giải quyết một cách thấu đáo mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế và giữ vững độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia. Trong Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Đảng ta đã chỉ rõ mục tiêu của hội nhập quốc tế “phải củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo toàn và phát huy bản sắc dân tộc, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Nhận thức của Đảng ngày càng sáng rõ quá trình hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh nên hội nhập quốc tế càng mở rộng và đi vào chiều sâu, càng phải kiên quyết bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế chính là xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu; hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi; các bước đi trong hội nhập quốc tế cần được dự liệu đúng đắn phù hợp với điều kiện thực tế ở bên ngoài và nguồn lực bên trong của đất nước. Đảng ta coi quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là tất yếu khách quan, nảy sinh và ngày càng sâu đậm trong quá trình đổi mới, phát triển đất nước và mở cửa hội nhập với thế giới. Đó là mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau, tạo tiền đề, điều kiện cho nhau, phát huy lẫn nhau, vừa thống nhất, thúc đẩy nhau nhưng nếu không xử lý tốt có thể tác động làm hạn chế, kìm hãm lẫn nhau trong việc bảo đảm lợi ích của quốc gia - dân tộc. Đảng ta xác định độc lập, tự chủ là cơ sở, điều kiện, tiền đề để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Có độc lập, tự chủ thì mới quyết định đúng lộ trình, bước đi, cách thức, nội dung, biện pháp, đối tác, các lĩnh vực hội nhập quốc tế. Quan điểm và chính sách liên quan tới độc lập, tự chủ của Đảng ta luôn được cụ thể hóa, bổ sung và phát triển theo sự chuyển biến của tình hình trong nước và quốc tế. Điều đó đã mở đường cho quá trình hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng, phục vụ thiết thực và hiệu quả cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm và chủ trương của Đảng nêu bật việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cơ hội, tiền đề để giữ độc lập, tự chủ trên mọi mặt đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Hội nhập quốc tế vừa tạo ra những cơ hội thuận lợi để huy động nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội trong nước, vừa là điều kiện cho việc củng cố môi trường hòa bình, ổn định để phát triển, trên cơ sở đó góp phần giữ vững độc lập, tự chủ. Hội nhập quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan của thời cuộc nói chung, vừa là nhu cầu nội tại của nước ta để góp phần giữ vững độc lập, tự chủ, chủ quyền của đất nước. 2. Thực tiễn giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế 1 Những vấn đề trọng yếu để giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế Đáp ứng yêu cầu giữ vững độc, lập tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế thực chất là việc xử lý tốt mối quan hệ quan trọng này, Đảng ta đã chỉ đạo sâu sát, cụ thể để xử lý mối quan hệ này một cách hài hòa, vừa góp phần tạo nên những thành tựu to lớn của đất nước, vừa tránh được các tác động tiêu cực trong khi hội nhập. Việc xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế đã được chỉ đạo một cách bài bản, khoa học trên mấy phương diện sau Trên lĩnh vực chính trị và đối ngoại Trong cả ba môi trường quốc tế, khu vực và toàn cầu, xử lý mối quan hệ này cần hiểu rõ sâu sắc các nhân tố quan trọng sau đây trong quá trình phát huy độc lập, chủ quyền quốc gia Thứ nhất, phải nắm chắc và xử lý tốt môi trường khu vực. Sự ổn định và phát triển, hay trái lại bất ổn và khủng hoảng tại Đông Nam Á và rộng hơn là chấu Á – Thái Bình Dương có ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ đối ngoại của nước ta và ảnh hưởng tới việc bảo vệ độc lập, tự chủ khi hội nhập. Thứ hai, về môi trường quốc tế, độc lập và tự chủ về đối ngoại của Việt Nam luôn chịu ảnh hưởng trong tương quan và quan hệ chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực quốc tế. Việc Việt Nam có thể khai thác lợi ích từ hội nhập đến đâu tùy thuộc vào sự ổn định, phát triển trong nước, cũng như năng lực xử lý quan hệ với các nước lớn, các trung tâm quyền lực thế giới bảo đảm cân bằng lợi ích của nước ta trong quan hệ với họ. Thứ ba, về môi trường toàn cầu, hội nhập và mở cửa tạo cơ hội cho đất nước phát triển nhưng cũng là điều kiện để một số thế lực thù địch bên ngoài nhân danh nhân quyền, dân chủ, tự do tôn giáo can thiệp vào công việc nội bộ, thực hiện “diễn biến hòa bình”, kích động, xúi giục các hoạt động bạo loạn, lật đổ, đe dọa an ninh quốc gia. Trên lĩnh vực kinh tế Đảng và Nhà nước đã xác định việc xử lý mối quan hệ này theo 4 nội dung chủ yếu. Thứ nhất, đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động và tích cực với việc ký kết chính thức và thực hiện có hiệu quả các hiệp định hợp tác kinh tế quốc tế; xây dựng các thể chế kinh tế hướng tới hội nhập quốc tế trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ. Thứ hai, luôn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường. Thứ ba, bảo đảm nền kinh tế đất nước không bị lệ thuộc vào bên ngoài. Thứ tư, điều cốt lõi nhất để giữ vững độc lập, tự chủ là quốc gia phải có thực lực, cụ thể là có một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Đó là nền kinh tế có cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và đảm bảo độ an toàn cần thiết; nền kinh tế phát triển bền vững và có năng lực cạnh tranh cao; cơ cấu xuất nhập khẩu cân đối; cơ cấu mặt hàng đa dạng, phong phú với tỷ lệ các mặt hàng công nghệ và có giá trị gia tăng lớn chiếm ưu thế; cơ cấu thị trường quốc tế và đối tác đa dạng, tránh chỉ tập trung quá nhiều vào một vài mục tiêu, một vài đối tác. Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội Để bảo đảm chủ quyền quốc gia trên lĩnh vực văn hóa – xã hội, khâu then chốt nhất là không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý văn hóa, xã hội của Nhà nước. Thứ nhất, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người mới giàu lòng yêu nước, sáng tạo; làm tốt công tác lãnh đạo, quản lý báo chí, truyền thông, không gian mạng. Thứ hai, các chính sách văn hóa – xã hội, dân tộc, tôn giáo phải được coi trọng, tránh để các thế lực thù địch kích động, gây chia rẽ; không ngừng củng cố đồng thuận xã hội, khối đại đoàn kết toàn dân; đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng và hiệu quả hệ thống cung cấp các dịch vụ công, tăng cường hiệu lực tư pháp, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng. Thứ ba, Việt Nam đã trở thành một đất nước có thu nhập trung bình nên trọng tâm công tác xã hội chuyển dần từ vấn đề xóa đói, giảm nghèo sang quản trị và an sinh xã hội, do đó cần tăng cường vai trò của Nhà nước pháp quyền, từng bước thực hành dân chủ, mở rộng sự tham gia của người dân vào hoạt động của Nhà nước. Trên phương diện quốc phòng – an ninh Để giữ vững độc lập, tự chủ khi hội nhập quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng – an ninh, Đảng ta đã chỉ rõ những vấn đề cốt yếu sau Ở trong nước, cùng với việc xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh, luôn chú trọng giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữa nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với công tác đối ngoại. Quan hệ với bên ngoài, trước hết cần dự báo đúng tình hình quốc tế và khu vực, những điều chỉnh chiến lược và các quan hệ của các nước lớn có liên quan đến nước ta, để dự liệu những khả năng, những tình huống xảy ra và từ đó tính đến các phương án đối phó. Một số vấn đề có tính nguyên tắc Đảng ta đã xác định một số vấn đề có tính nguyên tắc khi xử lý mối quan hệ Thứ nhất, lợi ích quốc gia được đặt ở vị trí số một trong mục tiêu, chính sách đối nội cũng như đối ngoại và hội nhập quốc tế. Thứ hai, phải thực hiện một chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, không lệ thuộc vào sự chi phối từ bên ngoài. Thứ ba, coi trọng, củng cố và thiết lập quan hệ ngoại giao với các quốc gia láng giềng, xây dựng một môi trường xung quanh hòa bình, thân thiện, hữu nghị, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu trong công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Thứ tư, xây dựng một nền quốc phòng vững mạnh, hiện đại, coi đó là một trong những cơ sở quan trọng để bảo vệ chủ quyền quốc gia và thực thi đường lối đối ngoại. Thứ năm, trên lĩnh vực kinh tế cần tuyệt đối tránh tình trạng bị lệ thuộc. Thứ sáu, coi trọng và phát triển quan hệ với các nước lớn vì trong bất cứ bối cảnh nào nước lớn luôn có vai trò ảnh hưởng đến đời sống quan hệ quốc tế, đến hòa bình và ổn định của khu vực và thế giới. Thứ bảy, xây dựng và thiết lập nền ngoại giao đa phương. Cùng với việc mở rộng ngoại giao song phương với các chủ thể là quốc gia dân tộc, các nước còn tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế và khu vực, coi đó là biện pháp hữu hiệu để hiện thực hóa lợi ích quốc gia, cũng như tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, giữ gìn an ninh và hòa bình khu vực cũng như trên thế giới. Thứ tám, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. 2 Những thành tựu giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế Từng bước quán triệt và xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong công tác đối ngoại, những năm qua chúng ta đã thu được những thắng lợi ấn tượng. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã khẳng định “Thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, trong thời gian qua, hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng. Môi trường hòa bình thuận lợi cho sự phát triển, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ tiếp tục được giữ vững”[1]. Lĩnh vực chính trị Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế về chính trị của nước ta trong thời gian qua đã đạt được những thành quả tốt đẹp. Chúng ta đã đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất chủ động tham gia phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Hội nhập quốc tế về chính trị được thực hiện tương đối nhanh, sâu rộng và thực chất cả trong kênh song phương và đa phương. Hội nhập song phương tạo tiền đề để Việt Nam phát huy vai trò trên diễn đàn đa phương, qua đó tạo thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng hơn. Hội nhập khu vực và hội nhập toàn cầu đã góp phần cải thiện đáng kể tiềm lực trong nước, nâng cao vị thế địa chiến lược của Việt Nam tại khu vực Đông Nam Á, Đông Á, châu Á – Thái Bình Dương và trên phạm vi toàn cầu. Từ một quốc gia hội nhập sau, Việt Nam đã trở thành nhân tố tích cực tham gia tiến trình hội nhập khu vực, chủ động đề xuất các sáng kiến, thúc đẩy các liên kết. Việt Nam cũng tích cực hội nhập sâu rộng vào trật tự kinh tế, chính trị toàn cầu, trở thành thành viên có trách nhiệm và uy tín trên cộng đồng quốc tế. Lĩnh vực kinh tế Đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đã xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư quốc tế, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học – công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến; khai thác hiệu quả các thỏa thuận được ký kết, đặc biệt là các khu vực mậu dịch tự do song phương và đa phương. Thành công của việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài rõ nhất là đã hình thành các cụm sản xuất và phát triển các ngành sản xuất có trình độ công nghệ tiên tiến. Theo Tổng cục Thống kê, tới năm 2018, đầu tư vào Việt Nam đã đăng ký gần 400 tỷ USD. Việt Nam đã được xếp vào nhóm 15 quốc gia thu hút FDI hàng đầu thế giới. Hiện nay cộng đồng tài trợ quốc tế hoạt động thường xuyên ở nước ta đã lên tới hơn 50 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và hơn 20 nhà tài trợ đa phương. Ngoài ra, nước ta còn nhận được vốn ODA từ hơn 600 tổ chức phi chính phủ quốc tế. Thành công của hội nhập kinh tế quốc tế góp phần tăng cường nguồn lực, tạo điều kiện vật chất – kỹ thuật thuận lợi cho việc bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước, tạo nền tảng để hội nhập về chính trị và hội nhập các lĩnh vực khác. Kinh tế đất nước phát triển, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên là nhân tố quan trọng để giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước. Lĩnh vực văn hóa – xã hội Hội nhập quốc tế trên lĩnh vực văn hóa – xã hội của nước ta với cộng đồng thế giới đã được đẩy mạnh, đa dạng về hình thức, phương thức, đối tác và có chuyển biến về chất lượng. Việt Nam đã ký hơn 100 thỏa thuận, điều ước quốc tế song phương có nội dung văn hóa. Hội nhập văn hóa - xã hội đi vào chiều sâu đã thu hút bạn bè quốc tế đến với Việt Nam ngày một nhiều hơn. Theo Báo cáo của Chính phủ, năm 2018, khách quốc tế đến Việt Nam đã vượt 15,5 triệu lượt người. Cũng từ thành công của hội nhập trong lĩnh ực này đưa tới việc hình thành nhiều dự án, nhiều công trình văn hóa ngay tại Việt Nam với quy mô ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện để nhân dân ta có cơ hội tiếp cận và thưởng thức những giá trị văn hóa tiêu biểu của nhiều quốc gia trên thế giới, từ đó thúc đẩy tiềm năng sáng tạo của nhân dân và khuyến khích giao lưu với cộng đồng quốc tế. Nguồn lực và động lực về văn hóa – xã hội được tăng cường sẽ là yếu tố quan trọng để chúng ta giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, để ánh sáng văn hóa Việt Nam là ngôi sao lấp lánh trên bầu trời văn hóa các dân tộc trên thế giới. Lĩnh vực quốc phòng – an ninh Hội nhập trên lĩnh vực quốc phòng – an ninh là một trong những nhiệm vụ quan trọng để phục vụ và hỗ trợ cho chính sách chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện của Đảng và Nhà nước ta, vừa phục vụ cho sự nghiệp phát triển của đất nước, vừa bảo vệ độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia trong bối cảnh môi trường quốc phòng – an ninh trên thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp. Việt Nam đã từng bước mở rộng hợp tác quốc phòng – an ninh với các nước lớn và các nước trong khu vực, đã có quan hệ quốc phòng chính thức với gần 70 nước, đặt văn phòng tùy viên quân sự tại hơn 30 nước và có hơn 40 nước có văn phòng tùy viên quân sự tại Việt Nam. Việt Nam cũng đã tham gia tích cực vào các diễn đàn an ninh – quốc phòng khu vực và từng bước tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc tế về an ninh – quân sự toàn cầu. 3 Những hạn chế, bất cập Về nhận thức Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế cần được xử lý hài hòa, vừa góp phần tạo nên những thành tựu to lớn của đất nước, vừa tránh được các tác động tiêu cực khi hội nhập. Tuy nhiên, trong nhận thức vẫn còn nhiều biểu hiện cực đoan. Một là, quan điểm coi độc lập, tự chủ là hằng số bất biến, có nội dung không thay đổi, không thể tương hợp với hội nhập quốc tế, xem thế giới như một thực thể hỗn tạp, khó lường nên phải hết sức thận trọng, không thể tích cực hội nhập được. Hai là, quan điểm ngược lại, cho rằng trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, không nhất thiết và không thể duy trì, củng cố độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia. Trong hội nhập quốc tế, vấn đề cốt lõi là phục vụ lợi ích quốc gia - dân tộc, nhưng một số cán bộ các cấp, các ngành vẫn bị chi phối bởi cục bộ địa phương, thậm chí các lợi ích nhóm đưa tới những sai lệch trong thực thi nhiệm vụ. Việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa độc lập tự chủ với hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia chưa thật thấu đáo, chưa thấy hết cái “được” và cái “mất” trong khi hội nhập nên dẫn tới “chủ động” hoặc “tích cực” thái quá, chưa tìm ra tính chủ động hợp lý. Ở nơi này, nơi khác, việc nhận rõ đối tượng và đối tác chưa thật đúng đắn và thiếu sâu sắc. Hạn chế rõ nét nhất về nhận thức chính là việc cụ thể hóa, xác định rõ những tiêu chí, cách thức, bước đi trong quá trình hội nhập quốc tế để giữ vững độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia dân tộc. Về thực tiễn Vẫn còn những lúng túng, bị động trong xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Chưa khai thác và phát huy hiệu quả quan hệ lợi ích đan xen, ổn định, bền vững với các đối tác, các nước lớn. Vẫn còn những biểu hiện thiếu chủ động, thiếu tích cực trong hội nhập và ngược lại, hội nhập thiếu sự cân nhắc cụ thể. Chưa có những giải pháp đồng bộ và hữu hiệu để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực trong khi hội nhập. Vẫn còn nhiều bất cập trong việc phối hợp giữa các ngành, các cấp, các địa phương, đơn vị trong quá trình hội nhập, dẫn tới kết quả của nơi này, việc này lại ảnh hưởng không tốt đến nơi khác, việc khác. Việc triển khai thực hiện các thỏa thuận quốc tế chưa thật nghiêm túc, đầy đủ, hiệu quả chưa cao, chưa phát huy được thế mạnh tổng hợp của đất nước. Hạn chế rõ nét nhất trong thực tiễn chính là sự yếu kém trong việc cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, những yêu cầu đặt ra để bảo đảm độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế. Cơ chế điều hành, giám sát và phối hợp trong quá trình hội nhập giữa Trung ương và địa phương, giữa các bộ, ban, ngành còn nhiều bất cập. Những hạn chế trong thực tiễn xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế dẫn tới môi trường hòa bình, thuận lợi cho phát triển đất nước đã được tạo dựng nhưng chưa thật bền vững. Quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng chưa ổn định, lâu dài và gặp nhiều trở ngại. Hội nhập quốc tế đã được triển khai mạnh mẽ nhưng vẫn chưa gắn kết chặt chẽ giữa hiệu quả của hợp tác với phát triển bền vững, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, giữ vững và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Nguyên nhân của những thành tựu trong nhận thức cũng như trong thực tiễn của việc xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là sự lãnh đạo của Đảng dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời kế thừa, phát huy truyền thống ngoại giao của cha ông để lại, những kinh nghiệm quý báu của Đảng và Nhà nước ta đã được tích lũy qua quá trình cách mạng. Nguyên nhân của những hạn chế trong nhận thức và hoạt động thực tiễn xử lý quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế chính là ở nơi này, nơi khác, ở mức độ này hoặc mức độ khác chưa theo kịp chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, nhất là những ý đồ, hành động của các nước lớn. Bên cạnh đó, công tác nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình, sự phối hợp giữa các bộ, ban ngành, địa phương chưa thật tốt dẫn tới việc hoạch định chính sách và triển khai các giải pháp chưa kịp thời, thiếu hiệu quả. 3. Tình hình mới và những vấn đề đặt ra 1 Bối cảnh mới Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và giữ vững độc lập, tự chủ của nước ta đang được tích cực thực hiện trong bối cảnh toàn cầu hóa, xu thế hòa bình, hợp tác vẫn tiếp tục phát triển nhưng tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến hết sức phức tạp, khó lường, tính chất bất định, bất ổn gia tăng. Tình hình đó vừa tạo ra những cơ hội thuận lợi, vừa đưa tới những khó khăn, thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế, cũng như tác động đến việc giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước. Các thách thức quốc tế ngày càng đa dạng hơn, lan tỏa hơn, các “cú sốc” bên ngoài có khả năng tác động mạnh hơn. Các nước lớn, đặc biệt là một số lãnh đạo của nước lớn giữ vai trò định hình luật chơi quốc tế đã đưa ra nhiều chính sách mới, đặc biệt là việc toan tính sử dụng sức mạnh để áp đặt nước khác và bảo vệ lợi ích của mình. Những quan điểm và lập trường cực đoan, vị kỷ đó tác động tiêu cực đến “không khí” hội nhập quốc tế cũng như môi trường an ninh và phát triển của các nước nói chung, trong đó đặc biệt bị ảnh hưởng là các nước vừa và nhỏ. Cùng với các thách thức an ninh phi truyền thống đã vượt quá giới hạn của một quốc gia, điều đáng lo ngại là gần đây, trên thế giới xuất hiện nhiều biến động phức tạp như xu hướng dân túy, bảo hộ, chống toàn cầu hóa và chống hội nhập quốc tế. Ở trong nước, nhiệm vụ giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế trong những năm qua đã thực hiện tốt và đạt được những kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên, phía trước cũng đứng trước nhiều khó khăn, phức tạp. Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao, kinh tế với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ nên sự đan xen lợi ích, tùy thuộc và chuyển hóa lẫn nhau ngày càng gia tăng. Kinh tế Việt Nam có độ mở cao, đã tham gia nhiều hiệp định kinh tế, thương mại thế hệ mới với tiêu chuẩn cao trong khi sức vóc của nền kinh tế còn có hạn nên áp lực từ quan hệ kinh tế quốc tế làm gia tăng nguy cơ phụ thuộc vào bên ngoài, ảnh hưởng trực tiếp đến tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Mặt trái của quá trình hội nhập trong điều kiện phát triển vượt bậc của khoa học, công nghệ, đặc biệt là mạng xã hội đang tác động tiêu cực đến tư tưởng, lối sống của một bộ phận nhân dân, làm gia tăng các vấn đề an ninh mạng, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao. Tình hình chính trị nội bộ, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa, an ninh các vùng, miền còn diễn biến phức tạp. Đấu tranh phòng chống tham nhũng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Các thế lực thù địch lợi dụng quá trình cải cách thể chế, pháp luật và thực thi các cam kết quốc tế để tác động chuyển hóa, can thiệp vào các công việc nội bộ của ta. 2 Những vấn đề đặt ra Những hạn chế, bất cập trong nhận thức cũng như thực tế xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế cùng với những tác động nhiều chiều từ tình hình thế giới, khu vực và hiện trạng của đất nước đặt ra một số vấn đề hết sức hệ trọng cần được giải quyết thấu đáo. Một là, nhiệm vụ bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc luôn là nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp. Trong quá trình hội nhập quốc tế, hợp tác, phát triển là xu thế chủ đạo nhưng cạnh tranh vì lợi ích quốc gia – dân tộc luôn nảy sinh, có lúc rất gay gắt. Có rất nhiều yếu tố, nhiều lĩnh vực liên quan đến lợi ích quốc gia – dân tộc như lợi ích về chính trị, tư tưởng, lợi ích kinh tế, lợi ích về văn hóa – xã hội, lợi ích về quốc phòng – an ninh. Không ít trường hợp trong quá trình hội nhập, đạt được mục tiêu, hiệu quả về mặt này làm ảnh hưởng tới mặt khác, lĩnh vực khác; đạt được hiệu quả với đối tác này có thể gây quan ngại với đối tác khác. Vậy nên việc xử lý hài hòa, thấu đáo để đạt được lợi ích quốc gia – dân tộc luôn là vấn đề căn bản và bức thiết. Hai là, cần có một thực lực tổng hợp của quốc gia đủ mạnh luôn là yêu cầu bức thiết để hội nhập ngày càng sâu, rộng nhưng vẫn bảo đảm độc lập, tự chủ của đất nước. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia là sức mạnh về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh. Khéo kết hợp các yếu tố đó mới có vị thế trong quá trình hội nhập và bảo đảm hội nhập mà không bị hòa tan, không bị đánh mất bản sắc của mình. Ba là, việc tránh bị lôi cuốn, lệ thuộc vào nước khác luôn là vấn đề nan giải, nhạy cảm. Trong bối cảnh trật tự mới của thế giới chưa định hình, các biểu hiện cực đoan cường quyền, áp đặt của một số nước lớn đang có chiều hướng gia tăng, chiến tranh thương mại, chiến tranh lạnh kiểu mới đang diễn biến phức tạp đòi hỏi khi hội nhập quốc tế phải hết sức tỉnh táo, có bản lĩnh và có giải pháp hợp lý để giữ thế chủ động, không bị chao đảo, không bị áp đặt và lệ thuộc. Bốn là, làm thế nào để không bị lâm vào thế bị động, bị bất ngờ, bị mắc kẹt. Tình hình thế giới ngày càng có những biến động phức tạp, nhanh chóng, khó lường, trong khi hội nhập là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh dẫn tới những thách thức to lớn trong quá trình bảo vệ độc lập, tự chủ, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc. 4. Một số đề xuất và giải pháp Trước những vấn đề mới đặt ra, để giữ vững độc lập, tự chủ trong khi thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi để hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải bảo vệ vững chắc lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, tạo môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ “Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính tị, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi”[2]. Các nghị quyết của Đảng đã xác định rõ những nguyên tắc, phương châm, mục tiêu, nhiệm vụ và phương hướng lớn cho quá trình hội nhập quốc tế. Để bảo vệ, giữ vững độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế, cần thực hiện tốt một số định hướng giải pháp quan trọng sau Thứ nhất, xác định rõ và luôn kiên định lợi ích quốc gia là mục tiêu cao nhất trong quá trình hội nhập quốc tế. Lợi ích quốc gia là hằng số, mọi vấn đề liên quan đến quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế phải được soi chiếu từ lợi ích quốc gia - dân tộc. Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc là giá trị cốt lõi trong quan hệ quốc tế. Thứ hai, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia về chính trị - đối ngoại, kinh tế, văn hóa – xã hội, quốc phòng – an ninh. Nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia là yếu tố quyết định thành công của quá trình hội nhập quốc tế. Đó là sức mạnh được tạo nên từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, của khối đoàn kết toàn dân tộc, của văn hóa, con người Việt Nam; sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Thứ ba, thực hiện nhất quán phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ quốc tế, lấy nguyên tắc của luật pháp quốc tế để xử lý quan hệ hệ đối ngoại. Nước ta là một bộ phận không thể tách rời thế giới, gắn liền với tiến trình phát triển của thế giới. Xa rời sự vận động chung, sẽ tự cô lập mình với thế giới bên ngoài và ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Lịch sử cho thấy “nhất biên đảo” hoặc chỉ quan hệ với một vài đối tác là nguồn gốc gây ra mất độc lập, tự chủ vì sẽ dễ bị bó hẹp trong sự lựa chọn và nếu không đủ bản lĩnh và nội lực sẽ dễ trở thành công cụ của quốc gia khác. Đa phương hóa, đa dạng hóa là cách dễ đan cài lợi ích với các đối tác, qua đó tăng cường tư thế đất nước, giữ vững độc lập, tự chủ quốc gia. Là một thành viên của cộng đồng quốc tế, Việt Nam chấp nhận “luật chơi” chung, không thể hành động đơn phương không tính đến lợi ích của nước khác. Đường lối, chính sách đối ngoại và đối nội của mỗi quốc gia đều có ảnh hưởng với những mức độ nhất định của những yếu tố tác động từ bên ngoài hoặc từ nước khác. Trong quá trình hội nhập quốc tế vừa hợp tác, vừa đấu tranh, không tránh khỏi sự va chạm với các nước khác, khi đó dùng luật pháp quốc tế để xử lý sẽ có sự công bằng hơn và bảo vệ độc lập, tự chủ hữu hiệu hơn. Thứ tư, chủ động phát hiện, ngăn chặn “từ sớm, từ xa” các nguy cơ đối với đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, quốc phòng – an ninh của đất nước. Quá trình hội nhập có sự tác động lẫn nhau giữa các nước lớn với nước vừa và nhỏ, giữa các nước có thể chế chính trị - xã hội khác nhau nên sẽ xuất hiện những xung đột về lợi ích hoặc các âm mưu chống phá từ bên ngoài. Vì vậy, việc chủ động phát hiện từ khoảng cách xa về không gian và sớm về thời gian những nguy cơ có thể xảy ra là yêu cầu bức thiết phải làm để có thể chủ động ngăn chặn, vô hiệu hóa, hóa giải các nguy cơ đó một cách kịp thời, hiệu quả. Phòng, chống một cách chủ động mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng hội nhập quốc tế để chuyển hóa nội bộ; phát hiện ngăn chặn kịp thời các đối tác nước ngoài lợi dụng các kẽ hở về luật pháp và sơ hở, yếu kém của ta để gây sức ép, trốn thuế, thao túng thị trường trong nước; đấu tranh với các loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia như rửa tiền, buôn lậu, sản xuất và tiêu dùng hàng giả, gian lận thương mại, tín dụng đen, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Tăng cường quản lý hoạt động trên mạng xã hội và Internet, có biện pháp ngăn chặn các thế lực thù địch xâm nhập vào các mạng nội bộ gây thiệt hại về kinh tế, phá hoại tư tưởng. Ngăn chặn việc nhập các ấn phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài để bảo đảm an ninh văn hóa. Thứ năm, nâng cao năng lực dự báo tình hình quốc tế, khu vực phục vụ đắc lực yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế. Cần đổi mới tư duy, nghiên cứu có chiều sâu, nhạy bén bám sát tình hình để có những dự báo xác đáng. Tập trung nghiên cứu những biến động mới của tình hình thế giới, khu vực, những điều chỉnh chiến lược và chính sách của các nước lớn, những mối quan hệ giữa các nước lớn. Nghiên cứu nắm bắt tình hình ở các nước láng giềng, tình hình an ninh khu vực, tình hình Biển Đông. Nguyên cứu đánh giá và xác định đúng đắn quan hệ đối tác, đối tượng trong từng tình huống cụ thể để có những ứng phó phù hợp, hiệu quả. Thứ sáu, tăng cường lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội; phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế. Đảng ta đã xác định nâng cao bản lĩnh chính trị và trí tuệ của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát triển sáng tạo trong thực tiễn hoạt động của Đảng. Đảng chủ trương xây dựng hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh, tạo chuyển biến rõ rệt trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước; ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng trong Đảng, nhất là cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, cán bộ tham gia hoạt động hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực. Trên cơ sở đó, Đảng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, kết hợp thành công sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại./. Vũ Văn Hiền Phó Chủ tịch HĐLLTW [1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XII, [2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XII, tr. 154-155.
Sự lựa chọn lịch sử Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, sống trong bối cảnh nước mất, nhà tan, người thanh niên Nguyễn Tất Thành sớm thấu hiểu tình cảnh đất nước và nỗi thống khổ của Nhân dân. Người quyết định phải tìm ra con đường mới nhằm đánh đuổi thực dân Pháp để cứu nước, cứu dân. Với lòng yêu nước nồng nàn và ý chí, khát vọng giải phóng dân tộc, ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Nhà Rồng đi Mác xây Pháp mang theo khát vọng cháy bỏng tìm đường cứu nước, để đem lại “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”. Thời gian ở nước ngoài từ năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã xác định mục tiêu rõ ràng là tìm con đường đấu tranh đúng đắn để giải phóng dân tộc, giành độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào mình. Để thực hiện được mục tiêu cao cả đó, Nguyễn Tất Thành đã phải làm nhiều nghề để sinh sống như phụ bếp trên tàu, quét tuyết, chụp ảnh, vẽ minh họa cho các báo, viết Cũng qua công việc, Người thêm hiểu, đồng cảm với những người lao động cùng khổ ở khắp mọi nơi trên thế giới, rèn luyện bản thân, nuôi dưỡng ý chí tự lực, tự cường, tu dưỡng đạo đức và bản lĩnh của chiến sĩ cách mạng. Sau này, Bác Hồ tâm sự, Bác làm rất nhiều nghề để làm một nghề lớn lao, đó là nghề cách mạng. Sau những năm tháng bôn ba khắp năm châu, bốn biển, cuối cùng, Người đã tìm được và đi theo con đường cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin. “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta! Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc trăn trở tìm đường về nước để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam. "Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập" - Người viết thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp, năm 1923. Với việc tìm ra con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tập trung mọi nỗ lực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị những tiền đề về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của một đảng cách mạng tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam. Ngày 03/02/1930, tại Hương Cảng Trung Quốc, Người chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Đây là bước ngoặt lịch sử trọng đại, chấm dứt cuộc khủng hoảng kéo dài về đường lối chính trị và về tổ chức của các phong trào yêu nước Việt Nam. ảng Cộng sản Việt Nam ra đời, theo phân tích của GS Hoàng Chí Bảo, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, chuyên gia cao cấp Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, "là sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu bước ngoặt của phong trào cách mạng Việt Nam, đây là khởi đầu dẫn tới Thời đại Hồ Chí Minh, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng triền miên về đường lối cứu nước từ cuối thế kỷ XIX đến thập niên 30 thế kỷ XX. Bước ngoặt ấy cũng là khởi đầu cho sự thay đổi số phận của dân tộc ta, là dấu mốc điển hình cho sự phát triển thành thục tư tưởng, đường lối và phương pháp cách mạng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh... Sự ra đời của Đảng không chỉ khẳng định tầm nhìn, vai trò, bản lĩnh, trí tuệ và uy tín của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam mà còn cho thấy những cống hiến to lớn và đầy sáng tạo của Người trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam". Những giá trị trường tồn Thực tiễn đã chứng minh, bằng con đường Bác đã chọn “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, cách mạng Việt Nam đã giành nhiều thắng lợi có ý nghĩa lịch sử trong các cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đi theo con đường cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra; trong bất cứ hoàn cảnh nào, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vận dụng phát triển, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng nâng cao uy tín, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của đất nước sau 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế là minh chứng sinh động khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng; khẳng định sự đúng đắn về đường lối cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra; và chính trong quá trình vận động của cách mạng, tư tưởng, đường lối đó ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện, trở thành ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đó là con đường đúng đắn và sáng tạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng lòng yêu nước, bằng trí tuệ mẫn tiệp, bằng sự hy sinh sẵn sàng đánh đổi cả cuộc đời, cả hạnh phúc của mình để có được. Từ một nước bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh, dân tộc Việt Nam đã đi đúng định hướng, xây dựng nên một nước Việt Nam có tốc độ phát triển nhanh trung bình 7%/năm, đặc biệt sau thời kỳ đổi mới 1986. Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỉ USD vào cuối năm 2020. Tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh, từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều tiêu chí cao hơn trước. Những thành tựu đất nước và dân tộc giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng trong suốt chiều dài lịch sử hơn 90 năm qua đủ để khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với đạo đức và phong cách của Người. Cho nên, Đảng ta đã nhấn mạnh rằng học tập, làm theo Bác là cả về tư tưởng, đạo đức và phong cách, nghiên cứu để tìm ra giá trị cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phải đặt trong mối quan hệ mật thiết với đạo đức và phong cách của Người. Mỗi cán bộ, đảng viên cần biến khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta về một nước Việt Nam giàu mạnh, phát triển, hùng cường, nhân dân tự do, hạnh phúc thành khát vọng, niềm tin, ý chí, quyết tâm chính trị lớn của toàn Đảng, toàn dân để sớm đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống. Đó chính là vấn đề quyết định thành công của Đại hội XIII của Đảng trong thực tiễn. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định Thành công của Đại hội XIII không chỉ là việc thông qua nghị quyết hay bầu Ban Chấp hành Trung ương mà quan trọng hơn là đưa Nghị quyết vào cuộc sống, biến Nghị quyết thành hiện thực sinh động. Với tầm nhìn xa trông rộng, hướng tới tương lai của Đảng ta, khẳng định rõ toàn Đảng, toàn dân ta quyết tâm Đổi mới, hội nhập và phát triển, phát huy truyền thống đoàn kết, chung sức, đồng lòng, kiên định niềm tin vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường mà Đảng và Bác Hồ kính yêu đã lựa chọn. Kỷ niệm 110 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước 5/6/1911 - 5/6/2021 là dịp để chúng ta luôn ghi nhớ đây là cột mốc quý, mốc son vàng của lịch sử dân tộc, có ý nghĩa trong trái tim của mỗi người dân Việt Nam. Nhớ về Người, mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân phấn đấu đi theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã chọn. Đồng thời, ra sức đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, biểu hiện bằng những việc làm cụ thể, thiết thực trong công việc và đời sống hằng ngày; noi theo tác phong giản dị, tinh thần cầu tiến, hoài bão cống hiến của Bác Hồ làm kim chỉ nam cho suy nghĩ và hành động, biến việc học tập cuộc đời, sự nghiệp của Bác thành mối quan tâm thường xuyên, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
độc lập tự chủ