3. Nội dung và nghệ thuật Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc; Soạn bài: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Phần 2: Tác phẩm mẫu 1. Tóm tắt; Câu 1 (trang 65 SGK Ngữ văn 11 tập 1) Câu 2 (trang 65 SGK Ngữ văn 11 tập 1) Câu 3 (trang 65 SGK Ngữ văn 11 tập 1) Câu 4 (trang 65 SGK Ngữ văn 11 tập 1) Luyện Giáo án Ngữ văn 11 VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC - Nguyễn Đình Chiểu A Mục tiêu học : Giúp học sinh -Nắm kiến thức đời, nghiệp, giá trị nội dung - nghệ thuật thơ văn Đồ Chiểu - Nắm quan điểm đạo đức, lí tưởng nhân nghĩa, lòng u nước thương dân, sắc thái Miền Nam độc đáo B Phương pháp thực hiện: Diễn 2. Thân bài * Hình tượng người nghệ sĩ đơn độc trong con đường đấu tranh : - Là người nghệ sĩ đa tài, là người chiến sỹ gan góc và nhiệt huyết . - Diện mạo người nghệ sĩ được phác họa trải qua hình tượng tiếng đàn " những tiếng đàn bọt nước " Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài văn Nguyễn Đình Chiểu viết theo yêu cầu của Đỗ Quang, tuần phủ Gia Định, để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tập kịch đồn quân Pháp ở Cần Giuộc. Bài văn cũng là một thành tựu xuất sắc về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn chất Tìm kiếm soạn văn bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc , soan van bai van te nghia si can giuoc tại 123doc - Thư viện trực tuyến hàng đầu Việt Nam Lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa. ( Sgk)b. Lòng yêu nước thương dân. ( Sgk )3. Nghệ thuật thơ văn - Văn chương trữ tình đạo đức.- Đậm Thật có lí khi khẳng định Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một trong những bài văn tế hay và cảm động nhất trong lịch sử văn học dân tộc. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm 3. Nội dung và nghệ thuật Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. a. Nội dung. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc, là bức tượng đài bất tử về những người nông dân nghĩa sĩ Cần Có phải bạn đang tìm kiếm chủ đề về => Phân tích 15 câu đầu bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc đầy đủ phải không? Nếu đúng như vậy thì mời bạn xem nó ngay tại . Thứ Tư, Tháng Mười 19 2022 . Breaking News. App Vay Tiền Nhanh. Nguyễn Đình Chiểu viết “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” trong khoảng thời gian ông tản cư về quê vợ ở Thanh Ba - cần Giuộc. Ngay sau khi được phổ biến, bài văn đã có tiếng vang rất lớn, nhất là trong lòng quân chúng nhân dân. Bởi ngoài việc được xây dựng hoàn toàn trên cơ sở người thật, việc thật của trận tập kích đồn giặc ở cần Giuộc đêm rằm 16-17/1861, bài văn tế còn bộc lộ rõ những nét độc đáo về mặt nội dung tư tưởng và nghệ thuật. Chính vì vậy, nó có giá trị mở đầu cho dòng văn học yêu nước chống Pháp nửa sau thế kỷ XIX và là chứng nhân cho cả một giai đoạn lịch sử đau thương, khổ nhục nhưng vĩ đại” của dân tộc. Cốt lõi của một bài văn là nội dung của nó. Điều đó đương nhiên ta không cần bàn cãi. Nhưng thiết nghĩ đôi lúc ta cũng nên dừng lại ở tựa đề một khi nó được ra đời tuyệt đối không do sự ngẫu nhiên trong cách lựa chọn của tác giả có giả thiết cho rằng đây là nhan đề do nhân dân lưu truyền mãi mà thành. Cũng như ở bài văn này, tại sao Nguyễn Đình Chiểu lại gọi nó là “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” mà không là “Văn tế vong hồn dân mộ nghĩa” hay “Văn tế nghĩa dân tử trận Cần Giuộc” như xưa nay vẫn lưu truyền? Có điều gì khác biệt giữa “dân mộ nghĩa”, “nghĩa dân” và “nghĩa sĩ”? Rõ ràng, từ “nông dân” mà trở thành “dân mộ nghĩa” đã là mọt sự thay đổi song từ “dân mộ nghĩa” trở thành “nghĩa dẫn” rồi từ “nghĩa dân” hóa thân thành “nghĩa sĩ” thì đúng là cả một quá trình người nông dân “lột xác” thực sự. Đằng này, tác giả lại không ngần ngại đưa họ từ vị trí thấp nhất là “nông dân” lên vị trí cao nhất “nghĩa sĩ”. Nếu đứng trên quan điểm của thế kỷ XX để nhìn nhận thì sự thay đổi này tạm thời ta có thể chấp nhận. Nhưng đây quả là vấn đề không thể chấp nhận ở thế kỷ XIX, nhất là ở một nhà Nho như Nguyễn Đình Chiểu khác nhà thơ Nguyên Đình Chiểu. Chưa bao giờ và có lẽ trước thời cụ Đồ, trong ý thức hệ của các nhà Nho phong kiến, người nông dân có cái vinh dự được gọi là “nghĩa sĩ”. Sinh ra và lớn lên từ trong lòng của chế độ phong kiến, đã từng qua cửa Khổng – sân Trình thì chắc chắn Nguyễn Đình Chiểu đã thuộc nằm lòng từ thủa còn ê a “Ngũ kinh”, “Tứ thư”, một nguyên lí gần như là cơ bản của Khổng giáo tiểu nhân người dân, nô lệ … không thể lẫn lộn với quân tử những người có địa vị, học rộng, biết nhiều. Nói cách khác, muốn là người “nghĩa” người “sĩ” thì nhất thiết anh phải thuộc tầng lớp quân tử. Còn nhớ “Hịch tướng sĩ” áng văn có sức mạnh làm lay động lòng người, song suốt từ đầu đến cuối, giữa niềm căm phẫn ứ đầy, trong vị mặn của dòng nước mắt của một vị chủ soái ta vẫn nghe cách xưng hô của Trần Quốc Tuấn “ta” và “các người” phân biệt rạch ròi hai giai tầng trong một xã hội. Thế thì cái gì, cái gì đã buộc Nguyễn Đình Chiểu xoay chiều đổi hướng về mặt tư tưởng, cái tư tưởng ngỡ như không phương tháo gỡ khi mà nó đã trở thành nhận thức của một nhà nho? Đó chính là thời cuộc là thực tế đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ xung quanh ông; là mắt thấy, tai nghe. Nguyễn Đình Chiểu đã đặt niềm tin cho triều đình quá nhiều và ông cũng đã thất vọng quá nhiều. Những kẻ mà ông đã hơn một lần lầm tưởng là những “trang dẹp loạn” “Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng? — Chạy Tây, là “chúa xuân” “Chúa xuân đâu hỡi có hay không?” – Xúc cảnh mỉa mai thay, thực ra chỉ toàn là lũ người chỉ sống cho cá nhân mình; một lũ người xiểm nịnh, giành giật chức tước và đục khoét dân nghèo. Năm 1862, Tự Đức đầu hàng, nỡ cắt ba tỉnh miền đồng cho giặc, Nguyễn Đình Chiểu đã tỏ; năm 1867, cắt luôn ba tỉnh miền tây, ông cũng đã tường. Và, một thực tế nhãn tiền cũng là một thực tế mà cụ Đồ không thể ngờ tới những người nông dân lại chính là những chủ nhân ông của đất nước. Họ sẵn sàng hi sinh hạnh phúc cá nhân, sẵn sàng đổ máu cho non sông, họ chẳng đáng là người “nghĩa” hay sao? Họ không cần có tri thức, không cần học rộng biết nhiều kinh sách thánh hiền nhưng họ đã hiểu đước vận mệnh sống còn của đất nước và hiểu được trách nhiệm của mình thì họ đúng là người “sĩ” quá đi chứ! Đã từng lặn lội với nhân dân, gắn. Bó với nông dân như máu mủ nhưng mãi đến hôm nay Nguyễn Đĩnh Chiểu mới phát hiện được sức mạnh tiềm tàng ở họ và vẫn không tránh khỏi bàng hoàng. Có ai tin được những kẻ đầu tắt mặt tối, cả một đời chưa rời khỏi lũy tre làng “cui cút làm ăn, riêng lo nghèo khó” ấy thế mà khi cần, mới sáng mai đây, chân còn đạp bùn, tay còn thơm mùi mạ mới hiên ngang đi vào trận đánh, chiến đấu như một đội quân nhà trời và một tinh thần vô tư chưa từng có “Chi nhọc quan quản gióng trổng kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xồ cửa xông vào, liều mình như chẳng có”. Đây là tư tưởng chủ yếu cũng là tư tưởng tích cực nhất mà Nguyễn Đình Chiểu đã vượt trội so với các nhà nho cùng thời. Chính nó đã tạo nên giá trị to lớn của áng văn tế. Mãi gần một trăm năm sau, Nam Cao tầng lớp tri thức đi theo cách mạng, đã từng sống với những người như Lão Hạc, Chí Phèo mới “ngã ngửa người ra” trước sức mạnh như nước lũ của quần chúng nhân dân “Đôi mắt” – Nam Cao. Thấy được khoảng cách thời gian ấy, ta mới thấy hết giá trị nội dung tư tưởng của “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Nó mở đường cho hàng loạt những hình tượng anh hùng “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” sau này như anh hùng Núp “Đất nước đứng lên” – Nguyên Ngọc, chị út Tịch “Người mẹ cầm súng” – Nguyễn Thi, anh giải phóng quân Hoan hô anh giải phóng quân Kính chào anh, con người đẹp nhất! Lịch sử hôn anh, chàng trai chân đất Tố Hữu Ta còn nhớ, khi còn là một chàng trai ở độ tuổi hai mươi, “tim đang dào dạt máu” say mê với khát vọng và háo hức với lí tưởng cách mạng, Tố Hữu đã nghe trên đường đi đày giữa đèo cao núi thẳm Gà đâu gáy động im lìm, Mơ mơ thấy xóm tranh chìm trong mây Đến khi được nhào nặn lại qua kháng chiến, khi đi hẳn vào thực tế của quần chúng cách mạng, cùng anh vệ pháo, cũng qua đèo núi anh hát “… Ta bế ta bồng Voi lên tạ vác Vại ta vai sắt …” Rõ ràng chẳng cần tính ý lắm ta càng nhận ra giọng thơ giản dị sau của Tố Hữu! Nó gần gũi, gắn bó với ta hơn. Đây có phải là sự biến chuyển phong cách nghệ thuật thông qua sự thay đổi nội dung tư tưởng? Nếu đúng thế thì hình thức nghệ thuật trong bài văn tế của Nguyễn Đình Chiểu, phải chăng cũng đã có sự biến đổi? Phải! Trước kia, tiếp xúc với truyện thơ Lục Vân Tiên, không ít người đã phải thở dài với câu “Vợ Tiên là Trực chị dâu” thì nay với Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc”, chắc hẳn ta hoàn toàn bị thuyết phục bởi văn phong nghệ thuật của ông. Ở đây, có một điều thực lạ lùng, độc đáo là giữa cái bi ai, trầm buồn của một áng văn tế, trong cái im lặng gần như tuyệt đối của buổi lễ truy điệu, trước hai mươi mốt nấm quan tài của hai mươi mốt người anh hùng chân đất cần Giuộc, giữa không khí nghiêm trang dường như chết lặng ấy, sau tiếng nấc người ta lại nghe trỗi dậy một bản anh hùng ca Iliat hừng hực khí thế của thời đại. Có thể nói, từ trước đến nay chưa có một bài văn tí nào đạt được khả năng kì diệu này. Hãy nghe “Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu …” Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hộ Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ni hồn kinh … tàu thiếc, tàu đồng súng nổ…” Chất giọng, tiết tấu khi đường hoàng, sang sảng lúc dồn dập, thôi thúc, có phải ta đã nghe qua một lần? Đúng, ta đã gặp ở “Bình Ngô đại cáo”, một áng thiên cổ hùng văn năm trăm năm trước. Song, cần nhớ đây lại là một bài văn tế. Một bài văn tế mà mang âm hưởng anh hùng ca chiến thắng, nó làm xao động, làm nức lòng người ta thì quả đúng như đồng chí Phạm Vãn Đồng đã nhận định Nếu “Bình Ngô đại cáo” là bản anh hùng ca chiến thắng thì “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ” là bản anh hùng ca về những người anh hừng thất thế nhưng vẫn hiên ngang. Nó là nỗi đau riêng hòa cùng nỗi đau chung trong số hai mươi mốt nghĩa sĩ đã hi sinh, có em ruột của Nguyễn Đình Chiểu là Nguyễn Đình Tựu, nó là “tiếng khóc vĩ đại” để gần tám mươi năm sau òa vỡ thành nụ cười tươi thắm ngày Cách mạng tháng Tám 1945 thành công. Nhưng thành công nghệ thuật trong “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” không chỉ dừng lại ở âm hưởng chung mà còn ở cái tài xây dựng hình tượng nhân vật của tác giả. Một tác phẩm văn học muốn trở nên có phong cách thì nhất thiết phải có tính cá thể. Do vậy nhân vật trong tác phẩm phải là nhân vật có cá tính ghen thì có nhiều cách ghen nhưng ghen mà vẫn “cười nói tỉnh say” thì chỉ mỗi Hoạn Thư “Kiều” — Nguyễn Du, say thì có nhiều cách nhưng say đến nỗi chửi cả những ai không chửi nhau với mình thì chỉ riêng Chí Phèo “Chí Phèo” – Nam Cao. Song, đó lại là những vật cá thể còn ở đây nhân vật của Nguyễn Đình Chiểu là nhân vật tập thể hai mươi mốt nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận công kích đồn Cần Giuộc. Với cái khó khăn này, chỉ cần sơ suất một chút thôi, các nhân vật của người cầm bút có lẽ sẽ dễ dàng bị rơi vào dạng trừu tường ngay. Vậy mà, đọc bài văn tế, trước mắt ta lại là một tập thể nhân vật anh hùng cụ thể, thống nhất. Họ cùng là những nông dân chân chất “cun cút làm ăn, riêng lo nghèo khó” cùng một lòng căm thù quân cựớp nước “mắt xanh, mũi lõ” mang tính bản năng ban đầu, đến độ “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ” và một ý thức thù nhà nợ nước mang nặng cá tính hơn về sau. Nhưng cơ bản và trên hết là họ cùng một lòng dũng cảm, chiến đấu trên tinh thần hoàn toàn tự nguyện, tự giác “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình … Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lưới tới, coi giặc cũng như không …” Chính tinh thần chiến đấu, chính lòng dũng cảm tuyệt vời của họ đã tạo nên âm hưởng anh hùng ca cho toàn bài và tạo nên đêm rằm tháng mười một năm Tân Dậu ấy cái bi thương mà oai dũng của trận cần Giuộc. Đây là nét độc đáo, là thành công lớn nhất về phương diện nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu trong bài văn. Bên cạnh đó, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” còn nổi rõ hai câu so sánh mang đậm chất Đồ Chiểu. Nó toát lên nét mới lạ, một phong cách nghệ thuật riêng chỉ có ở tác giả, nó không lẫn lộn với bất cữ một ai thứ nhất “Trông tin quan như trời hạn trông mưa” thứ hai “Ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Hai so sánh, hai cảm nhận gần như chỉ bằng trực giác, nó thuộc về tiềm năng của ý thức. Câu văn viết ra cực kì giản dị, giản dị tới mức không thể nào giản dị hơn. Song, cái điều bình thường ấy, cái trạng thái tâm lí ngỡ như là đương nhiên ấy không phải bất cứ ai cũng nhận thấy và phát hiện được. Mới hay, trước khi cầm bút để trở thành một nhà văn, Nguyễn Đình Chiểu đã là một nông dân tự bao giờ. Đúng! Chỉ có anh nông dân kia, một trưa bước ra khỏi căn nhà tranh, che tay nheo mắt nhìn trời mà nói bâng quơ ”Trời hôm nay lại nắng, lúa thóc lại chết toi chết tiệt cả rồi!” Và chỉ có anh nông dân kia một sớm ra thăm đồng, chặc lưỡi mà rằng “Quái lạ! Cái giống cỏ này, tốn công mãi mà vẫn không xong”. Phải thâm nhập vào tận cùng gốc rễ tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân thì Nguyễn Đình Chiểu mới có được hai câu so sánh rặt nông dân đến thế. Chung quy, những nét độc đáo về nội dung tư tưởng và nghệ thuật trong bài văn tế của Nguyễn Đình Chiểu đều xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước. Nó là một thứ đạo mà đối với ông sau khi được mở rộng bình diện qua “Lục Vân Tiên”, và sau này qua “Ngư tiều y thuật vấn đáp”, nó nâng lên thành một tiêu chuẩn mới ai yêu nước người ấy tất có đạo. “Vãn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” có thể nói đã đánh dấu một bước ngoặt mới trong từng chặng đường trong văn nghiệp Nguyễn Đình Chiểu, trở thành “tượng đài nghệ thuật” của nền văn học Việt Nam nhờ vào một bước phát triển mới về nội dung tư tưởng và nghệ thuật của tác giả. Và cuối cùng, ta có thể chốt lại như SGK – Văn 11 “Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc xứng đáng được coi là một trong những kiệt tác của văn chương Việt Nam”. Tóm tắt bài Tìm hiểu chung a. Hoàn cảnh sáng tác Năm 1859, giặc Pháp tấn công Gia Định, nhân dân Nam bộ đứng lên chống giặc. Đêm 14/12/1861, trận Cần Giuộc nổ ra gây nhiều tổn thất lớn cho giặc, nhưng cuối cùng quân ta cũng thất bại. Tuần phủ Gia Định nhờ tác giả viết để tỏ lòng tiếc thương những người đã hi sinh. Như vậy Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc không đơn thuần là sản phẩm của nghệ thuật cá nhân mà còn là tác phẩm mang tính quốc gia, thời đại. b. Thể loại Bài văn tế được viết theo thể phú luật Đường với bố cục 4 phần c. Bố cục Câu 1 -2 lung khởi Hoàn cảnh chiến đấu và hi sinh của nghĩa quân Câu 3 - 15 thích thực Cuộc đời, cảnh chiến đấu anh dũng của nghĩa quân Câu 16 - 23 ai vãn Sự hi sinh cao quý của người nghĩa quân Câu 24 - 30 kết Niềm tự hào và thương tiếc về những người đã hi sinh Đọc - hiểu văn bản a. Lung khởi Câu 1 phép đối súng giặc >< không quen tập súng, mác, cờ, cung ngựa → Họ là những người nông dân hoàn toàn xa lạ với việc binh đao. Khi giặc Pháp xâm lược Tình cảm Lo sợ phập phồng, trông chờ ở triều đình Căm ghét quân giặc "muốn tới ăn gan", "muốn ra cắn cổ", "ghét....như nhà nông ghét cỏ" Nhận thức "một mối sa thư đồ sộ....theo dê bán chó" → Ý thức trách nhiệm đối với non sông, đất nước. Hành động Tự nguyện đứng lên đánh giặc Trong trận công đồn Hoàn cảnh chiến đấu Không biết về kinh thư yếu lược Trang bị manh áo vải, ngọn tầm vông, dao phong...→ Trang bị thô sơ là những vật dung sinh hoạt thường ngày Quân giặc đạn nhỏ, đạn to, tàu sắt, tàu đồng → vũ khí tối tân Khí thế chiến đấu Bút pháp tả thực Động từ mạnh đạp, xô, đâm, chém, xông → các cụm từ vừa diễn tả tinh thần vừa diễn tả khí thế chiến đấu xô cửa, xông vào, đạp rào, hè trước... Câu văn ngắn gọn, nhịp đệu khẩn trương, sôi động. ⇒ Tinh thần chiến đấu ngoan cường, quả cảm, dũng mãnh ⇒ Tác giả đã xây dựng bức tượng đài bất tử về người nông dân yêu nước, họ mang vẻ đẹp của người anh hùng chân chất mà làm nên lịch sử, vừa phi thường vừa bình thường. c. Phần ai vãn và kết thúc Tiếc hận cho các nghĩa sĩ ra đi khi sự nghiệp còn dang dở, ý nguyện chưa thành Tiếc thương cho Quê hương; nhân dân Sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng Chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ Gia đình; người thân Mẹ già khóc trẻ vợ yếu chạy tìm chồng → cảnh tan tác, hắt hiu, đau thương Khóc uất cho tình cảnh đau thương của quê hương đất nước. Thể hiện được niềm cảm phục và tự hào đối với các nghĩa sĩ Dũng cảm đứng lên đánh giặc Cái chết đã làm sáng tỏ chân lí của thời đại "chết vinh còn hơn sống nhục" Biểu dương tâm trạng "ôi một trận khói tan nghìn năm tiết rỡ..." ⇒ Khích lệ những người còn sống đứng lên đánh giặc Tổng kết Nội dung Bài văn tế là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc. Tác giả đã xây dựng nên bức tượng đài bất tử về người nông dẫn nghĩa sĩ Cần Giuộc. Lần đầu tiên trong văn học Việt Nam người nông dân có mặt ở vị trí trung tâm với tất cả vẻ đẹp bi tráng của tấm lòng dũng cảm hi sinh vì Tổ quốc. Nghệ thuật Kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực Ngôn ngữ vừa trang trọng vừa dân dã, bình dị, mang đậm sắc thái Nam bộ. Bài tập minh họa Ví dụ Đề Hãy chỉ ra tiếng khóc bi tráng của Nguyễn Đình Chiểu trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Gợi ý làm bài Các em có thể dựa vào những gợi ý dưới đây Đoạn Ai vãn là tiếng khóc bi tráng của tác giả trong bài văn tế. Tiếng khóc bi tráng ấy bắt nguồn từ Nỗi xót thương đối với người tử sĩ Niềm tiếc hận cho người phải hi sinh khi sự nghiệp còn dang dở. Nỗi đau đớn, não nùng của gia đình mất đi người thân. Nỗi căm hờn đối với những kẻ đã gây nên nghịch cảnh cho người nông dân. Tiếng khóc thương trong bài văn tế không chỉ thể hiện tình cảm riêng của tác giả mà đó còn là tiếng khóc của nhân dân cả nước, là nõi niềm, là sự tri ân, ghi nhận, tuyên dương công trạng của người nghĩa sĩ. Tiếng khóc không chỉ gợi lại sự tiếc thương mà còn khích lệ lòng căm thù giặc và ý chí tiếp nối sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Đoạn Ai vãn là tiếng khóc bi tráng, mang nỗi đau tột cùng nhưng không chìm ngập rồi tan biến theo sự thương tiếc mà tiếng khóc ấy hết sức hùng hồn, phảng phất âm hưởng tự hào, khẳng định ý nghĩa bất tử của cái chết vì dân vì nước của người nông dân. Hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ được tái hiện trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc với vẻ đẹp bên ngoài bình dị, đời thường; vẻ đẹp bên trong là lòng dũng cảm, tinh thần vì nghĩa xả thân; khi đứng trước cảnh nước nhà bị xâm lăng họ vùng lên bằng tinh thần quật khởi. Để hiểu sâu sắc hơn về tác phẩm, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây Bài soạn Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. 4. Hỏi đáp về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc phần tác phẩm Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn HỌC247 sẽ sớm trả lời cho các em. 5. Một số bài văn mẫu về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc phần tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên một bức tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với những phẩm chất vốn có ngoài đời của họ. Nguyễn Đình Chiểu đã tạc nên hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân trong trạng thái, tính cách, hành động theo bản chất của người nông dân. Để cảm nhận sâu sắc hơn và dễ dàng viết một bài văn hoàn chỉnh, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là một tác phẩm văn chương có tính lịch sử cao và mang đến cho độc giả một cái nhìn sâu sắc về tinh thần và sự hy sinh của những người nghĩa sĩ. Dưới đây là bài phân tích giá trị nghệ thuật đặc sắc bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc hay nhất, mời bạn đọc cùng đón xem. Mục lục bài viết 1 1. Dàn ý phân tích giá trị nghệ thuật đặc sắc bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Mở bài Thân bài Kết bài 2 2. Phân tích giá trị nghệ thuật đặc sắc bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc hay nhất 3 3. Phân tích giá trị nghệ thuật đặc sắc bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc chọn lọc Mở bài – Giới thiệu tác phẩm và tác giả. – Giới thiệu vấn phân tích giá trị nghệ thuật đặc sắc bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Thân bài – Tác phẩm văn học này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam. Ngôn ngữ của tác giả không chỉ đơn thuần là giản dị và dân dã, mà còn có sức mạnh gợi cảm và giá trị thẩm mĩ cao, tạo nên một tác phẩm vô cùng sâu sắc và chân thật. – Tác giả sử dụng các từ ngữ và lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân Nam Bộ để tạo nên một tác phẩm đầy ắp những hình tượng nghệ thuật và liên tưởng so sánh đậm chất Nam Bộ. – Những liên tưởng này được sử dụng rất thành công, giúp tác giả khắc họa được vẻ đẹp và sự tươi vui của cuộc sống Nam Bộ. Lối ví von so sánh của tác giả cũng rất phù hợp với cuộc sống của người làm ruộng, rất phù hợp với nếp cảm và nghĩ của nông dân. – Khi mô tả hình ảnh của người nông dân nghĩa sĩ, tác giả không sử dụng bút pháp ước lệ rất phổ biến trong văn học trung đại mà hoàn toàn sử dụng bút pháp hiện thực. Nhiều thủ pháp nghệ thuật được sử dụng rất thành công, bao gồm biểu tượng súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ, so sánh trông tin quan như trời hạn trông mưa, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ, đặc tả đạp rào lướt tới, xô cửa xông vào, và đặc biệt là phép đối, đạt hiệu quả nghệ thuật cao. Phép đối từ ngữ và đối ý được sử dụng rộng rãi, giúp tác giả khắc họa vẻ đẹp bi tráng của người nông dân nghĩa sĩ. – Giọng văn của tác giả thay đổi linh hoạt, phù hợp với những nội dung được biểu đạt và trạng thái cảm xúc, trên nền âm hưởng chủ đạo là thống thiết. Khi miêu tả cuộc sống khó khăn của người nông dân, giọng văn bùi ngùi và trầm lắng cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó, chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu ở làng bộ. Tuy nhiên, khi ca ngợi những người nghĩa sĩ xả thân vì nước, lời văn trang trọng và tự hào Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời, ai cũng mộ. – Giọng điệu của bài văn thay đổi tùy theo nội dung, từ tiếng khóc đau thương đến lời khẳng định ngợi ca mang âm hưởng sử thi, tạo nên một tác phẩm giàu cảm xúc và vẻ đẹp bi tráng. Tác phẩm này là một bức tranh đẹp về cuộc sống và con người, tỏa sáng vẻ đẹp và sức mạnh của văn học Việt Nam. Kết bài – Đánh giá khái quát lại vấn đề nghị luận. – Liên hệ cảm nhận bản thân. 2. Phân tích giá trị nghệ thuật đặc sắc bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc hay nhất “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một tác phẩm văn chương có tính lịch sử cao và mang đến cho độc giả một cái nhìn sâu sắc về tinh thần và sự hy sinh của những người nghĩa sĩ. Tác phẩm này là một lời tri ân đối với những anh hùng vô danh đã đánh đổi tất cả để bảo vệ độc lập dân tộc. Những nhân vật trong tác phẩm không chỉ là những người anh hùng, mà còn là những con người thật sự, với những đức tính cao đẹp, những thử thách và khó khăn trong cuộc sống. Tác giả Nguyễn Đình Chiểu không chỉ miêu tả những nét đẹp tâm hồn của những anh hùng mà còn kết hợp rất nhiều những biện pháp nghệ thuật độc đáo và đặc sắc để tạo ra một tác phẩm văn chương tuyệt vời. Tác phẩm được xây dựng từ những tín hiệu nghệ thuật tiêu biểu, thể hiện qua từng câu thơ, câu văn mang tính độc đáo và sự mới mẻ. Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm vừa là hình ảnh được xây dựng xuất chúng, vừa là thành quả lao động nghệ thuật của một cây bút tài ba, giàu lòng nhân ái. Nghệ thuật trong tác phẩm được thể hiện qua giọng điệu trữ tình, xót thương cho những người nghĩa sĩ nông dân oai hùng, quả cảm, ngôn từ gần gũi, giản dị mang âm hưởng Nam Bộ và thủ pháp xây dựng câu văn biền ngẫu đã được tác giả phối hợp, tạo nên bản anh hùng ca chói lòa, tri ân những người anh hùng đã xả thân vì nước. Các hình ảnh biểu trưng riêng biệt và các biện pháp tu từ nhuần nhuyễn, linh hoạt cũng được sử dụng để tạo ra tác phẩm văn chương đầy sức sống và ấn tượng đối với độc giả. Bài văn tế của Nguyễn Đình Chiểu là một tác phẩm văn học đặc sắc, với nhiều yếu tố nghệ thuật độc đáo. Nếu xét về khía cạnh nghệ thuật, không thể không nhắc đến cách sử dụng câu từ trong tác phẩm. Nguyễn Đình Chiểu đã tận dụng ngôn từ một cách thông minh để thể hiện sự tôn kính trong ngày lễ tế và sự tôn trọng đến những người đã hi sinh. Những thán từ như “Hỡi ôi”, “Khá thương thay”, “Ôi thôi thôi!”, “Ôi!”, “Đau đớn bấy”, “Não nùng thay!”… được sử dụng rải rác nhằm bộc lộ cảm xúc đạt tới đỉnh điểm của nhà văn, lại có tác dụng khơi gợi sự đồng cảm từ người nghe. Tác giả cũng sử dụng các từ ngữ đặc biệt mang tính địa phương như “bao tấu”, “bầu ngòi”, “chi nhọc”, “hai hàng lụy”,… để tạo nên sự tự nhiên và không hô hào sáo rỗng trong bài văn. Ngoài ra, tác giả cũng vận dụng những câu nói khai thác đời sống giản dị đời thường, chắt lọc trở thành những câu nói có giá trị nghệ thuật. Việc khai thác chất liệu hiện thực không khiến tác phẩm trở thành những câu thoại khẩu ngữ thường nhật, thay vào đó là hệ thống câu văn biểu cảm. Cùng với giọng văn oai hùng, bi tráng, nghệ thuật sử dụng ngôn từ đã khiến bài Văn tế trở nên vần điệu, lay động hơn. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng bao trùm lên toàn bộ câu chuyện là âm hưởng anh hùng ca bi tráng, cơ ngợi công ơn lớn lao của những người lính nhân dân. Nguyễn Đình Chiểu không quên tỏ bày nỗi xót xa đến những mất mát đau thương mà những người thân của họ phải chịu đựng. Trong tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu đã dùng giọng văn mang khí chất anh hùng quả cảm, nêu lên quyết tâm ngùn ngụt của người lính Cần Giuộc. Tuy lực lượng vũ trang chênh lệch cả về trang thiết bị lẫn số lượng nhưng những người chiến sĩ Cần Giuộc không lấy đó làm lý do nản chí, chùn bước. Tác giả đã tạo ra không gian trận đấu mở ra trước mắt người đọc với những chuỗi hành động mạnh mẽ liên tiếp thể hiện tinh thần sắt đá, quật cường. Những câu văn giàu cảm xúc như “Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều”, “Não nùng thay! Vợ yêu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ” hay các câu ca dao tục ngữ được lồng ghép khéo léo như “tấc đất ngọn rau ơn chúa”, “bát cơm manh áo ở đời”,… cũng đã được tác giả lồng ghép vào tác phẩm để tăng thêm giá trị nghệ thuật. Tóm lại, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên một tác phẩm văn học đặc sắc với sự kết hợp tinh tế giữa ngôn từ, câu nói và tình tiết. Các yếu tố nghệ thuật độc đáo của tác phẩm đã khiến cho bài văn tế trở nên đặc sắc hơn. 3. Phân tích giá trị nghệ thuật đặc sắc bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc chọn lọc Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng thành công bức tượng đài về những người anh hùng đánh giặc. Bức tượng đó đã truyền tải được giá trị nghệ thuật đặc sắc của bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, làm cho nó trở thành một tác phẩm bất tử trong lịch sử phát triển của văn học Việt Nam. Tuy nhiên, bức tượng đài này còn mang trong nó một giá trị rất quý giá khác, đó là tinh thần ngoan cường và lòng quyết tâm chiến đấu của những người nông dân mặc áo nghĩa quân. Điều này xuất phát từ phẩm chất cao cả của họ, vốn được đào tạo từ nghề nông, mang trong mình tính cần cù, giản dị và chất phác. Họ có “đôi bàn tay vàng” trong nghề nông, làm việc với sự quen thuộc của việc cuốc, cày, cấy tay. Họ có đôi mắt hiền lành, phản ánh vẻ đẹp hòa bình của cuộc sống thường nhật. Nhưng đối với quân xâm lược, lòng căm thù của họ thật sâu sắc, do mùi tinh chiến đã vấy vá trong ba năm qua. Tuy nhiên, tinh thần và lòng quyết tâm chiến đấu của họ lại rực rỡ hào quang của chân lý và chính nghĩa, được thể hiện qua những đường nét đẹp, khỏe khoắn và hào hứng trên bức tượng đài. Điểm nổi bật của bức tượng đài này là sự độc đáo và tinh tế trong việc tái hiện tinh thần ngoan cường của những người nông dân yêu nước. Vẻ bề ngoài của họ rất đặc thù, với một cật một manh áo vải và các công cụ thô sơ, lạc hậu như hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, đoạn gậy gộc và một ngọn tầm vông trong tay. Những chi tiết này đã tạo ra một bức tranh về những người anh hùng vô danh “sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”, đầy tinh thần chiến đấu và quyết tâm giữ gìn đất nước, và trở thành một tác phẩm nghệ thuật mang tính biểu tượng đối với nền văn hóa Việt Nam trong suốt nhiều thế kỷ. Những người nông dân yêu nước đã hy sinh trong trận đánh ngày 16-12-1861 tại Cần Giuộc, như hàng trăm, hàng ngàn người khác đã hy sinh trong các cuộc khởi nghĩa kháng Pháp cuối thế kỉ XIX. Tuy nhiên, bức tượng đài hào hùng Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã làm cho họ trở nên bất tử. Họ sẽ sống mãi trong lâu đài văn chương, văn hóa của nhân dân. Nguyễn Đình Chiểu, một nhà văn và nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam, đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để tưởng nhớ những anh hùng đã hy sinh vì đất nước. Đây là một tác phẩm nghệ thuật vô cùng đặc sắc, tạo được sức hút đặc biệt đối với người đọc. Một giá trị nghệ thuật đặc sắc khác của bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là nó thực sự trở thành khúc ai ca bi tráng biểu hiện tấm lòng ngưỡng mộ và tiếc thương của cả một dân tộc đối với những người nông dân yêu nước, những nghĩa sĩ, những anh hùng vô danh này. Nguyễn Đình Chiểu đã viết những câu văn thật xúc động khi khóc thương cho họ. Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo. Ngữ điệu câu văn đọc lên nghe như có tiếng khóc nức nở, tắc nghẽn. Lời khóc tắc nghẽn nên nó mất mát các từ, các tiếng. Đáng ra đầy đủ là phải Nước mắt khóc người anh hùng lau chẳng hết được có nghĩa là khóc và nước mắt chảy mãi, chảy hoài… Tiếc thương và ngưỡng mộ, Nguyễn Đình Chiểu muốn các nghĩa sĩ không bao giờ bị quên. Ông đã vận dụng cả tiềm thức và tâm linh thể để sáng tạo nên những hình tượng có tính siêu hình, đặng nói cái lẽ vĩnh hằng, bất tử của những người nghĩa sĩ Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh. Tình cảm của Nguyễn Đình Chiểu trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc cũng là tình cảm của cả một thời đại. Vua Tự Đức đã từng rung động với bài văn tế và cho in phổ biến nó trong các tỉnh ở Nam Bộ. Đặc biệt, bài viết này còn giúp tôn vinh những người anh hùng đã hy sinh cho đất nước và góp phần bảo vệ sự độc lập của nền văn hóa Việt Nam. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một tác phẩm bất hủ sẽ trường tồn với lịch sử Việt Nam, nhân dân Việt Nam. Những câu thơ của Mai Am công chúa cũng đã động viên và khích lệ tinh thần của nhân dân Việt Nam Bồi hồi đọc mãi bản văn ai Phách cứng văn hùng cảm động thay…… Quốc ngữ một thiên truyền mãi mãi Còn hơn xây cất mộ khô hài. Các vị hoàng tộc triều Nguyễn cũng đồng sáng tạo với Nguyễn Đình Chiểu để mang lại một tác phẩm văn học đặc sắc, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Tóm lại, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một tác phẩm văn học đặc sắc và bất hủ của người Việt Nam, đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam.

nghệ thuật bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc